Cập nhật nội dung chi tiết về Giới Thiệu Viện Da Liễu Trung Ương mới nhất trên website Growcaohonthongminhhon.com. Hy vọng thông tin trong bài viết sẽ đáp ứng được nhu cầu ngoài mong đợi của bạn, chúng tôi sẽ làm việc thường xuyên để cập nhật nội dung mới nhằm giúp bạn nhận được thông tin nhanh chóng và chính xác nhất.
Từ khoa “Bệnh lý Nội thương – Da liễu” được hình thành vào tháng hai năm 1954 và Trường Đại học Y Dược trên núi rừng Việt Bắc, Giáo sư Đặng Vũ Hỷ cùng với anh chị em tiếp quản khu ngoài da liễu của Bệnh viện Bạch Mai tháng 10/1954.
A. Lịch sử hình thành
– Từ khoa “Bệnh lý Nội thương – Da liễu” được hình thành vào tháng hai năm 1954 và Trường Đại học Y Dược trên núi rừng Việt Bắc (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), Giáo sư Đặng Vũ Hỷ cùng với 45 cán bộ – công nhân viên kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp về tiếp quản khu ngoài da của Bệnh viện Bạch Mai tháng 10/1954.
Lãnh đạo đơn vị ở thời kỳ đầu.
– Từ tháng 10 năm 1954 đến năm 1972: Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ – Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Kinh Duệ – Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Từ 1964, Giáo sư Lê Tử Vân được cử làm Phó Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai.
– Từ năm 1972, sau khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ qua đời, cho tới năm 1981: Giáo sư Lê Kinh Duệ được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Tử Vân giữ chức Phó Chủ nhiệm khoa, Phó Chủ nhiệm Bộ môn. Giáo sư Nguyễn Thị Ŀào – Làm Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Ngày 28 tháng giêng năm 1982 Bộ Y tế ra Quyết định số 70/BYT-QĿ thành lập Viện Da liễu Việt Nam trực thuộc Bộ Y tế nằm trong Bệnh viện Bạch Mai do Giáo sư Lê Kinh Duệ làm Viện trưởng.
– Ngày 30/3/2006 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 486/QĐ-TTg về việc thành lập Viện Da liễu Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế do Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Văn Hiển làm Viện Trưởng.
B. CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ:
1. Viện Da liễu Quốc gia là Viện chuyên khoa đầu ngành về Phong – Da liễu có chức năng
2. Viện Da liễu Quốc gia có các nhiệm vụ:
a) Nghiên cứu mô hình bệnh tật, các phương pháp chẩn đoán, điều trị, dự phòng và phục hồi chức năng các bệnh thuộc chuyên ngành bệnh Phong và Da liễu:
b) Đào tạo cán bộ
c) Công tác khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng
d) Chỉ đạo tuyến
e) Hợp tác quốc tế
C. LÃNH ĐẠO VIỆN HIỆN NAY:
– PGS. TS. Phạm Văn Hiển – Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Da liễu Việt Nam.
– PGS. TS. Trần Hậu Khang – Phó Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Phó Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội.
– TS. Nguyễn Sỹ Hoá – Phó Viện trưởng Viện Da liễu.
D. HỆ THỐNG TỔ CHỨC
Hệ thống tổ chức của Viện Da liễu hiện nay gồm khối các khoa phòng chức năng, các khoa lâm sàng và các khoa cận lâm sàng
1. Các phòng chức năng
a. Phòng tổ chức hành chính
b. Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học
c. Phòng hợp tác quốc tế
d. Phòng chỉ đạo ngành
e. Phòng tài chính kế toán
f. Phòng kế hoạch tổng hợp – quản trị – vật tư và thiết bị y tế
g. Phòng y tế cơ quan
2. Các khoa lâm sàng
a. Khoa khám bệnh
b. Khoa điều trị bệnh phong và laser – phẫu thuật
i. Bệnh nhân phong nội trú
ii. Vật lý trị liệu, UVA – UVB
iii. Laser
iv. Phẫu thuật
v. Chăm sóc da thẩm mỹ
c. Khoa điều trị bệnh da phụ nữ và trẻ em
d. Khoa điều trị bệnh da nam giới
3. Các khoa cận lâm sàng
a. Khoa dược
b. Khoa xét nghiệm
i. Phòng vi sinh – nấm
ii. Phòng giải phẫu bệnh
iii. Phòng huyết thanh
iv. Phòng sinh hóa – huyết học
v. Phòng miễn dịch
Ngoài ra, Viện còn có:
– Đảng bộ
– Công đoàn
– Chi đoàn
– Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội
– Hội đồng thi đua khen thưởng
– Hội đồng bảo hộ lao động
– Hội động khoa học kỹ thuật
– Hội đồng lương
– Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
4. Cán bộ
– Tổng số cán bộ Viện Da liễu gồm 160, trong đó có 15 cán bộ thuộc biên chế Bộ môn Da liễu Trường đại học Y Hà nội
– Phó giáo sư, tiến sĩ: 3
– Tiến sĩ: 6
– Thạc sĩ: 16
– Bác sĩ CK II: 6
– Bác sĩ CK I: 8
– Bác sĩ: 8
E. THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Từ khi thành lập Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai cho tới nay là Viện Da liễu Quốc gia, Viện đã thực hiện và chỉ đạo được một số công việc nổi bật sau:
1. Xây dựng màng lưới chuyên khoa:
Cho tới nay 100% các tỉnh/thành (64/64) trong cả nước đều đã có cơ sở chuyên khoa Da liễu. Tuỳ theo điều kiện cụ thể về tổ chức biên chế cán bộ, theo địa dư và theo phương pháp quản lý của từng địa phương mà các cơ sở Da liễu ở từng địa phương mang những tên gọi khác nhau (Bệnh viện Da liễu; Bệnh viện Phong và Da liễu; Trung tâm Da liễu; Trạm Da liễu; tổ Da liễu nằm trong Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm Da liễu), nhưng chức năng, nhiệm vụ công tác và mục tiêu hoạt động chuyên khoa đều thống nhất.
2. Đào tạo và nghiên cứu khoa học:
25 năm qua Viện đã đào tạo được nhiều đối tượng đại học, sau đại học, cụ thể :
– Bác sĩ chuyên khoa : 418
– Bác sĩ chuyên khoa I : 207
– Bác sĩ chuyên khoa II: 28
– Bác sĩ nội trú: 13
– Thạc sĩ: 22
– Nghiên cứu sinh: 17
– Sinh viên luân khoa của trường Y: Trung bình mỗi năm khoảng 200 đến 400
– Đào tạo chuyên khoa cho các đơn vị bạn như trường đại học y tế cộng cộng, đại học răng hàm mặt…
– Mở hàng trăm lớp đào tạo lại, nâng cao trình độ tại các tỉnh, thành về bệnh Phong, bệnh da và bệnh LTQĐTD.
– Tham gia giảng dạy cho các sinh viên nước ngoài đến học tập, nghiên cứu.
– Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu các đề tài về phòng chống các bệnh da liễu, bệnh phong, bệnh LTQĐTD và phục vụ cho công tác đào tạo, xây dựng màng lưới chuyên khoa, công tác nghiên cứu khoa học được ngành Da liễu khởi xướng ngay từ khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai và cho tới nay vẫn tiếp tục, ngày càng phát triển.
– Tổng số hơn 1.300 công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học, nổi bật gồm:
• Phong: 312
• LTQĐTD: 165
• Các bệnh da phổ biến: 290
3. Hợp tác quốc tế:
Từ những năm đầu tiên, khi mới về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai, Khoa đã nhận được sự giúp đỡ và hợp tác nghiên cứu khoa học của các nước xã hội chủ nghĩa :
– Năm 1957-1958 : Đoàn chuyên gia Liên Xô (cũ) sang giúp ta phát hiện các bệnh hoa liễu ở Tây Bắc, Phát Diệm Ninh Bình và một vài thành phố và thị xã trên miền Bắc. Ŀồng thời chi viện cho chúng ta nhiều thuốc men và hoá chất phục vụ công tác này.
– Từ năm 1959-1962 :
+ Bác sĩ Vulcan, chuyên gia Rumani sang hợp tác cùng Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai khám phát hiện và điều trị bệnh phong taị huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, huyện Vĩnh Tương tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Các chuyên gia : Kudela (Tiệp Khắc), Stoyanov Nitov (Bungari), Giáo sư Volgan Hofs (Cộng hoà Dân chủ Ŀức) sang hợp tác nghiên cứu khoa học và giúp chúng ta chống các bệnh Da liễu.
– Sau này, khi đất nước còn bị cấm vận, từ những năm 1977-1978, ngành Da liễu đã tạo được những mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển với nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) ở các nước như : Hà Lan, Nhật Bản, Bỉ, Anh, ĐĿức, Pháp, ý, Thuỵ Sĩ…, Tổ chức Y tế Thế giới (WHOs)… Mỗi tổ chức giúp chúng ta một vùng, gồm từ 1-2 ; 4-5 ; rồi 10 đến 12 tỉnh/thành phố, với đề án hợp tác, viện trợ thuốc men, phương tiện giao thông (ô tô, xe máy, xe đạp…), tài liệu sách vở, kinh phí đào tạo cán bộ, giáo dục y tế, phục hồi chức năng, dạy nghề… và gửi cán bộ đi học tập, tham gia, dự hội nghị quốc tế và khu vực, góp phần nâng cao trình độ và uy tín của Ngành Da liễu, Viện Da liễu trên trường quốc tế.
– Từ 1992 đến nay: 100% các tỉnh, thành có dự án hợp tác về công tác phòng chống Phong với các tổ chức quốc tế như: WHO, các Hội chống Phong các nước Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Nhật, Nauy… Hàng năm, có hàng chục đoàn khách quốc tế và chuyên gia vào làm việc với Viện Da liễu. Viện đã hoàn thành kịp thời thủ tục phê duyệt dự án, chuyển kinh phí cho địa phương hoạt động và quyết toán với phía bạn, duy trì được các nguồn viện trợ hàng năm của các tổ chức gồm nhiều tỷ đồng. Nhiều đề án đặc biệt đã được thực hiện như với WHO là đề án Giám sát sau loại trừ bệnh Phong, tổ chức các lớp may, sửa chữa xe máy, học lái xe, nghề mộc… cho bệnh nhân phong và con em của họ.
4. Thành tựu bước đầu trong công cuộc chống bệnh phong :
– Từ chỗ những năm trước đây ta chỉ có điều kiện điều trị bệnh phong bằng DDS đơn thuần (đơn hoá trị liệu). Từ sau ngày thống nhất đất nước, Ngành Da liễu nắm bắt được kịp thời những thông tin mới trên Thế giới về kỹ thuật, chẩn đoán, phân loại và điều trị bệnh phong từ năm 1983 đến nay. Ngành Da liễu đã chuyển sang dùng hoá trị liệu phối hợp (đa hoá trị liệu), giúp hiệu quả trị bệnh tăng nhanh gấp bội, nhanh chóng cắt được nguồn lây, hạn chế tàn tật trên bệnh nhân phong và đề phòng vi khuẩn phong kháng thuốc. Tỷ lệ bệnh nhân bị tái phát rất thấp. Chỉ mới tính đến năm 1994, sau 10 năm thực hiện Đa hoá trị liệu (ĐHTL-MDT), tổng số bệnh nhân đã hoàn thành đa hoá trị liệu và đã được khỏi bệnh là 80.000 người / trên cả nước.
– Trong công trình nghiên cứu dài hạn nhằm rút ngắn thời gian chữa khỏi bệnh phong hơn nữa bằng Ofloxacin của Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam đã được chọn là một trong 7 Trung tâm lớn của toàn thế giới tham gia đề tài này.
– Năm 1994, Thủ đô Hà Nội đã được chọn để đăng cai việc tổ chức một Hội nghị Quốc tế quan trọng bàn về việc khống chế và tiến tới thanh toán bệnh phong trên toàn cầu. Đã có hơn 150 đại biểu, các nhà khoa học về bệnh phong, 47 Bộ trưởng Bộ Y tế các nước sang Việt Nam cùng tham gia. Hội nghị đã ra được bản “Tuyên ngôn Hà Nội” khuyến cáo mọi quốc gia phấn đấu sớm loại trừ bệnh phong ra khỏii Y tế cộng đồng, đạt được như lời kêu gọi của Đại hội Y tế Thế giới tổ chức tại Genève năm 1991 là Hãy loại trừ bệnh phong ra khỏi nền y tế cộng đồng trên toàn thế giới vào năm 2000.
– Từ năm 1995 : Chương trình phòng chống bệnh phong của Ngành Da liễu đã được Nhà nước nâng lên thành chương trình quốc gia.
– Từ năm 1995-2006 :
+ Thực hiện chương trình y tế quốc gia về phòng chống bệnh Phong. Đã thực hiện thành công “Loại trừ bệnh Phong theo tiêu chuẩn WHO” vào năm 2000.
+ Tính đến hết năm 2006, có 37 tỉnh, thành trong cả nước đạt được loại trừ bệnh phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam do Bộ Y tế ban hành năm 2002. (Tiêu chuẩn này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới).
– Hàng năm giám sát hoạt động chống Phong của các tỉnh trong toàn quốc.
– Chỉ đạo và thực hiện chương trình phòng chống tàn tật cho bệnh nhân Phong.
– Thực hiện dự án hợp tác giữa phòng Chỉ đạo ngành với các Hội chống Phong Hà Lan (NLR), Bỉ, Đức.
– Mở nhiều lớp tập huấn về chăm sóc bàn tay, bàn chân mất cảm giác, phòng tránh thương tích ở mắt bệnh nhân Phong cho cán bộ chuyên môn của các khu điều trị Phong và cán bộ làm công tác chống Phong.
– Tập huấn nâng cao kiến thức về bệnh Phong cho cán bộ chuyên khoa tuyến huyện tại các tỉnh trong cả nước.
– Tập huấn cho cán bộ chống phong tuyến tỉnh về chiến lược lồng ghép trong hoạt động chống phong giai đoạn mới.
– Xây dựng các tài liệu và biểu mẫu theo dõi tàn tật cho bệnh nhân Phong, mẫu Báo cáo tình hình hoạt động da liễu hàng năm, bệnh án bệnh nhân Phong, sửa mẫu M2, M3 cho phù hợp với tình hình thực tế.
– Hoàn thiện văn bản dưới luật hướng dẫn tổ chức công nhận loại trừ bệnh Phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam.
– Phân phối thuốc chống Phong, thuốc bôi ngoài da phục vụ công tác khám phát hiện bệnh Phong cho các tỉnh/thành trong cả nước.
– Giáo dục y tế toàn dân và tập huấn cho cán bộ y tế những kiến thức cơ bản về bệnh Phong ở những xã trọng điểm (xã có nhiều bệnh nhân Phong mới).
– Hàng năm tổ chức giao ban 4 phòng Chỉ đạo ngành: Viện Da liễu Quốc gia, Bệnh viện Da liễu Tp Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hoà; Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quỳnh Lập.
– Phân vùng dịch tễ bệnh Phong.
5. Hoạt động phòng chống bệnh LTQĐTD:
– Là tiểu ban Da liễu thuộc Cục phòng chống HIV/AIDS Bộ Y tế, Viện đã xây dựng Chương trình hành động phòng, chống các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đến năm 2010 trong khuôn khổ chương trình Y tế quốc gia phòng chống HIV/AIDS.
– Hàng năm tập huấn cho các giảng viên tuyến tỉnh về quản lí, giám sát và điều trị các nhiễm khuẩn LTQĐTD. Giám sát thương qui các bệnh LTQĐTD tại các tỉnh theo qui định của Bộ Y tế.
– Hoàn thành bộ tài liệu giảng dạy chuẩn quốc gia về quản lý bệnh LTQĐTD, các nhiễm khuẩn đường sinh sản cho chương trình chăm sóc sức khoẻ đường sinh sản của Bộ Y tế để thực hiện đào tạo trong hệ sản phụ khoa ở tuyến quận, huyện và xã, phường.
– Tham gia biên soạn tài liệu về chuẩn quốc gia điều trị nhiễm trùng cơ hội trong HIV/AIDS.
– Xây dựng quyển Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục
6. Công tác xuất bản và tuyên truyền, giáo dục y tế chuyên ngành:
– Cuốn Nội san Da liễu được ra đời sớm nhất từ tháng 10/1950 và liên tục cho tới nay, cùng với cuốn Thông tin Da liễu được Tổng hội Y học Việt Nam xuất bản đều đặn trong mấy thập kỷ qua, đã góp phần không nhỏ vào công tác “đào tạo liên tục” trong đông đảo cán bộ chuyên khoa Da liễu.
– Những sách chuyên đề về phổ biến khoa học đã được xuất bản với số bản tương đối nhiều như: “Một số kiến thức hiện đại về bệnh phong”, “Bệnh phong đầu phải nan y (Diễn Ca)”; “Tìm hiểu về bệnh Giang mai”, “Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục”, “Da tóc thường mắc những bệnh gì ?”; “Những bệnh nấm da thường gặp”, “Bệnh vảy nến”, “Những bệnh da có mủ”, “Bệnh da nghề nghiệp”, “Phục hồi chức năng trong bệnh phong” v.v… Mỗi đầu sách đã được Nhà xuất bản Y học in với chỉ số hàng ngàn cuốn và bán rộng rãi trong dân. Hàng chục bộ phim được ra đời kể cả phim truyện và phim đèn chiếu với những nội dung thiết thực nhằm giáo dục y tế về bệnh phong và hoa liễu cho nhân dân: (Ví dụ một vài tên phim có nhan đề: “Đâu phải nan y”; “Vẫn có ngày mai”, “Nga Sơn Thanh Hoá bệnh phong”, “Bản tình ca” nói về bệnh phong. Còn bộ phim “Trót dại” thì nói về bệnh hoa liễu, với hàng trăm bản đã được phát ra kèm theo hàng chục máy chiếu phim lưu động trên những địa bàn xa xôi hẻo lánh.
7. Thành tích nổi bật :
– Năm 1983 : Viện Da liễu đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1983 : Bộ môn Da liễu đã được Bộ Y tế tặng bằng khen về thành tích giảng dạy giỏi
– Năm 1983 : Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì.
– Năm 1994: Giáo sư Lê Kinh Duệ được Hội chống phong những nước nói tiếng Pháp (Francophonie) bầu làm Phó Chủ tịch của Hội.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ đã vinh dự được tặng giải thưởng lớn mang tên Sasakawa của WHO.
– Năm 1996: Cố Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
– Năm 2001: Viện Da liễu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng hai.
– Năm 2002: Bộ môn Da liễu đã được tăng thưởng Huân chương lao động hạng Ba
– Năm 2003: Cố Giáo sư Viện trưởng Lê Kinh Duệ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì.
– Năm 2003: PGS. TS. Phạm Văn Hiển được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III.
Theo dalieu.vn
GIỚI THIỆU VIỆN DA LIỄU TRUNG ƯƠNGkham chua, benh vien
A. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
– Từ khoa “Bệnh lý Nội thương – Da liễu” được hình thành vào tháng hai năm 1954 và Trường Đại học Y Dược trên núi rừng Việt Bắc (Chiêm Hoá, Tuyên Quang), Giáo sư Đặng Vũ Hỷ cùng với 45 cán bộ – công nhân viên kháng chiến chống thực dân xâm lược Pháp về tiếp quản khu ngoài da của Bệnh viện Bạch Mai tháng 10/1954.
Lãnh đạo đơn vị ở thời kỳ đầu.
– Từ tháng 10 năm 1954 đến năm 1972: Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ – Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Kinh Duệ – Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Từ 1964, Giáo sư Lê Tử Vân được cử làm Phó Chủ nhiệm Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai.
– Từ năm 1972, sau khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ qua đời, cho tới năm 1981: Giáo sư Lê Kinh Duệ được bổ nhiệm làm Chủ nhiệm khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội. Giáo sư Lê Tử Vân giữ chức Phó Chủ nhiệm khoa, Phó Chủ nhiệm Bộ môn. Giáo sư Nguyễn Thị Ŀào – Làm Phó Chủ nhiệm Bộ môn.
– Ngày 28 tháng giêng năm 1982 Bộ Y tế ra Quyết định số 70/BYT-QĿ thành lập Viện Da liễu Việt Nam trực thuộc Bộ Y tế nằm trong Bệnh viện Bạch Mai do Giáo sư Lê Kinh Duệ làm Viện trưởng.
– Ngày 30/3/2006 Thủ tướng Chính phủ ra quyết định số 486/QĐ-TTg về việc thành lập Viện Da liễu Quốc gia trực thuộc Bộ Y tế do Phó giáo sư, tiến sĩ Phạm Văn Hiển làm Viện Trưởng.
B. CHỨC NĂNG NHIỆM VỤ:
1. Viện Da liễu Quốc gia là Viện chuyên khoa đầu ngành về Phong – Da liễu có chức năng
2. Viện Da liễu Quốc gia có các nhiệm vụ:
a) Nghiên cứu mô hình bệnh tật, các phương pháp chẩn đoán, điều trị, dự phòng và phục hồi chức năng các bệnh thuộc chuyên ngành bệnh Phong và Da liễu:
b) Đào tạo cán bộ
c) Công tác khám, chữa bệnh và phục hồi chức năng
d) Chỉ đạo tuyến
e) Hợp tác quốc tế
C. LÃNH ĐẠO VIỆN HIỆN NAY:
– PGS. TS. Phạm Văn Hiển – Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội, Phó Chủ tịch Hội Da liễu Việt Nam.
– PGS. TS. Trần Hậu Khang – Phó Viện trưởng Viện Da liễu kiêm Phó Chủ nhiệm Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội.
– TS. Nguyễn Sỹ Hoá – Phó Viện trưởng Viện Da liễu.
D. HỆ THỐNG TỔ CHỨC
Hệ thống tổ chức của Viện Da liễu hiện nay gồm khối các khoa phòng chức năng, các khoa lâm sàng và các khoa cận lâm sàng
1. Các phòng chức năng
a. Phòng tổ chức hành chính
b. Phòng đào tạo và nghiên cứu khoa học
c. Phòng hợp tác quốc tế
d. Phòng chỉ đạo ngành
e. Phòng tài chính kế toán
f. Phòng kế hoạch tổng hợp – quản trị – vật tư và thiết bị y tế
g. Phòng y tế cơ quan
2. Các khoa lâm sàng
a. Khoa khám bệnh
b. Khoa điều trị bệnh phong và laser – phẫu thuật
i. Bệnh nhân phong nội trú
ii. Vật lý trị liệu, UVA – UVB
iii. Laser
iv. Phẫu thuật
v. Chăm sóc da thẩm mỹ
c. Khoa điều trị bệnh da phụ nữ và trẻ em
d. Khoa điều trị bệnh da nam giới
3. Các khoa cận lâm sàng
a. Khoa dược
b. Khoa xét nghiệm
i. Phòng vi sinh – nấm
ii. Phòng giải phẫu bệnh
iii. Phòng huyết thanh
iv. Phòng sinh hóa – huyết học
v. Phòng miễn dịch
Ngoài ra, Viện còn có:
– Đảng bộ
– Công đoàn
– Chi đoàn
– Bộ môn Da liễu trường Đại học Y Hà Nội
– Hội đồng thi đua khen thưởng
– Hội đồng bảo hộ lao động
– Hội động khoa học kỹ thuật
– Hội đồng lương
– Hội đồng đạo đức trong nghiên cứu y sinh học
4. Cán bộ
– Tổng số cán bộ Viện Da liễu gồm 160, trong đó có 15 cán bộ thuộc biên chế Bộ môn Da liễu Trường đại học Y Hà nội
– Phó giáo sư, tiến sĩ: 3
– Tiến sĩ: 6
– Thạc sĩ: 16
– Bác sĩ CK II: 6
– Bác sĩ CK I: 8
– Bác sĩ: 8
E. THÀNH QUẢ ĐẠT ĐƯỢC
Từ khi thành lập Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai cho tới nay là Viện Da liễu Quốc gia, Viện đã thực hiện và chỉ đạo được một số công việc nổi bật sau:
1. Xây dựng màng lưới chuyên khoa:
Cho tới nay 100% các tỉnh/thành (64/64) trong cả nước đều đã có cơ sở chuyên khoa Da liễu. Tuỳ theo điều kiện cụ thể về tổ chức biên chế cán bộ, theo địa dư và theo phương pháp quản lý của từng địa phương mà các cơ sở Da liễu ở từng địa phương mang những tên gọi khác nhau (Bệnh viện Da liễu; Bệnh viện Phong và Da liễu; Trung tâm Da liễu; Trạm Da liễu; tổ Da liễu nằm trong Trung tâm phòng chống bệnh xã hội, Trung tâm Y tế dự phòng, Trạm Da liễu), nhưng chức năng, nhiệm vụ công tác và mục tiêu hoạt động chuyên khoa đều thống nhất.
2. Đào tạo và nghiên cứu khoa học:
25 năm qua Viện đã đào tạo được nhiều đối tượng đại học, sau đại học, cụ thể :
– Bác sĩ chuyên khoa : 418
– Bác sĩ chuyên khoa I : 207
– Bác sĩ chuyên khoa II: 28
– Bác sĩ nội trú: 13
– Thạc sĩ: 22
– Nghiên cứu sinh: 17
– Sinh viên luân khoa của trường Y: Trung bình mỗi năm khoảng 200 đến 400
– Đào tạo chuyên khoa cho các đơn vị bạn như trường đại học y tế cộng cộng, đại học răng hàm mặt…
– Mở hàng trăm lớp đào tạo lại, nâng cao trình độ tại các tỉnh, thành về bệnh Phong, bệnh da và bệnh LTQĐTD.
– Tham gia giảng dạy cho các sinh viên nước ngoài đến học tập, nghiên cứu.
– Nghiên cứu khoa học: Nghiên cứu các đề tài về phòng chống các bệnh da liễu, bệnh phong, bệnh LTQĐTD và phục vụ cho công tác đào tạo, xây dựng màng lưới chuyên khoa, công tác nghiên cứu khoa học được ngành Da liễu khởi xướng ngay từ khi Giáo sư Đặng Vũ Hỷ về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai và cho tới nay vẫn tiếp tục, ngày càng phát triển.
– Tổng số hơn 1.300 công trình nghiên cứu và báo cáo khoa học, nổi bật gồm:
• Phong: 312
• LTQĐTD: 165
• Các bệnh da phổ biến: 290
3. Hợp tác quốc tế:
Từ những năm đầu tiên, khi mới về tiếp quản khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai, Khoa đã nhận được sự giúp đỡ và hợp tác nghiên cứu khoa học của các nước xã hội chủ nghĩa :
– Năm 1957-1958 : Đoàn chuyên gia Liên Xô (cũ) sang giúp ta phát hiện các bệnh hoa liễu ở Tây Bắc, Phát Diệm Ninh Bình và một vài thành phố và thị xã trên miền Bắc. Ŀồng thời chi viện cho chúng ta nhiều thuốc men và hoá chất phục vụ công tác này.
– Từ năm 1959-1962 :
+ Bác sĩ Vulcan, chuyên gia Rumani sang hợp tác cùng Khoa Da liễu Bệnh viện Bạch Mai khám phát hiện và điều trị bệnh phong taị huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá, huyện Vĩnh Tương tỉnh Vĩnh Phúc.
+ Các chuyên gia : Kudela (Tiệp Khắc), Stoyanov Nitov (Bungari), Giáo sư Volgan Hofs (Cộng hoà Dân chủ Ŀức) sang hợp tác nghiên cứu khoa học và giúp chúng ta chống các bệnh Da liễu.
– Sau này, khi đất nước còn bị cấm vận, từ những năm 1977-1978, ngành Da liễu đã tạo được những mối quan hệ quốc tế ngày càng phát triển với nhiều tổ chức phi chính phủ (NGO) ở các nước như : Hà Lan, Nhật Bản, Bỉ, Anh, ĐĿức, Pháp, ý, Thuỵ Sĩ…, Tổ chức Y tế Thế giới (WHOs)… Mỗi tổ chức giúp chúng ta một vùng, gồm từ 1-2 ; 4-5 ; rồi 10 đến 12 tỉnh/thành phố, với đề án hợp tác, viện trợ thuốc men, phương tiện giao thông (ô tô, xe máy, xe đạp…), tài liệu sách vở, kinh phí đào tạo cán bộ, giáo dục y tế, phục hồi chức năng, dạy nghề… và gửi cán bộ đi học tập, tham gia, dự hội nghị quốc tế và khu vực, góp phần nâng cao trình độ và uy tín của Ngành Da liễu, Viện Da liễu trên trường quốc tế.
– Từ 1992 đến nay: 100% các tỉnh, thành có dự án hợp tác về công tác phòng chống Phong với các tổ chức quốc tế như: WHO, các Hội chống Phong các nước Bỉ, Hà Lan, Anh, Pháp, Nhật, Nauy… Hàng năm, có hàng chục đoàn khách quốc tế và chuyên gia vào làm việc với Viện Da liễu. Viện đã hoàn thành kịp thời thủ tục phê duyệt dự án, chuyển kinh phí cho địa phương hoạt động và quyết toán với phía bạn, duy trì được các nguồn viện trợ hàng năm của các tổ chức gồm nhiều tỷ đồng. Nhiều đề án đặc biệt đã được thực hiện như với WHO là đề án Giám sát sau loại trừ bệnh Phong, tổ chức các lớp may, sửa chữa xe máy, học lái xe, nghề mộc… cho bệnh nhân phong và con em của họ.
4. Thành tựu bước đầu trong công cuộc chống bệnh phong :
– Từ chỗ những năm trước đây ta chỉ có điều kiện điều trị bệnh phong bằng DDS đơn thuần (đơn hoá trị liệu). Từ sau ngày thống nhất đất nước, Ngành Da liễu nắm bắt được kịp thời những thông tin mới trên Thế giới về kỹ thuật, chẩn đoán, phân loại và điều trị bệnh phong từ năm 1983 đến nay. Ngành Da liễu đã chuyển sang dùng hoá trị liệu phối hợp (đa hoá trị liệu), giúp hiệu quả trị bệnh tăng nhanh gấp bội, nhanh chóng cắt được nguồn lây, hạn chế tàn tật trên bệnh nhân phong và đề phòng vi khuẩn phong kháng thuốc. Tỷ lệ bệnh nhân bị tái phát rất thấp. Chỉ mới tính đến năm 1994, sau 10 năm thực hiện Đa hoá trị liệu (ĐHTL-MDT), tổng số bệnh nhân đã hoàn thành đa hoá trị liệu và đã được khỏi bệnh là 80.000 người / trên cả nước.
– Trong công trình nghiên cứu dài hạn nhằm rút ngắn thời gian chữa khỏi bệnh phong hơn nữa bằng Ofloxacin của Tổ chức Y tế Thế giới, Việt Nam đã được chọn là một trong 7 Trung tâm lớn của toàn thế giới tham gia đề tài này.
– Năm 1994, Thủ đô Hà Nội đã được chọn để đăng cai việc tổ chức một Hội nghị Quốc tế quan trọng bàn về việc khống chế và tiến tới thanh toán bệnh phong trên toàn cầu. Đã có hơn 150 đại biểu, các nhà khoa học về bệnh phong, 47 Bộ trưởng Bộ Y tế các nước sang Việt Nam cùng tham gia. Hội nghị đã ra được bản “Tuyên ngôn Hà Nội” khuyến cáo mọi quốc gia phấn đấu sớm loại trừ bệnh phong ra khỏii Y tế cộng đồng, đạt được như lời kêu gọi của Đại hội Y tế Thế giới tổ chức tại Genève năm 1991 là Hãy loại trừ bệnh phong ra khỏi nền y tế cộng đồng trên toàn thế giới vào năm 2000.
– Từ năm 1995 : Chương trình phòng chống bệnh phong của Ngành Da liễu đã được Nhà nước nâng lên thành chương trình quốc gia.
– Từ năm 1995-2006 :
+ Thực hiện chương trình y tế quốc gia về phòng chống bệnh Phong. Đã thực hiện thành công “Loại trừ bệnh Phong theo tiêu chuẩn WHO” vào năm 2000.
+ Tính đến hết năm 2006, có 37 tỉnh, thành trong cả nước đạt được loại trừ bệnh phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam do Bộ Y tế ban hành năm 2002. (Tiêu chuẩn này cao hơn nhiều so với tiêu chuẩn của Tổ chức Y tế Thế giới).
– Hàng năm giám sát hoạt động chống Phong của các tỉnh trong toàn quốc.
– Chỉ đạo và thực hiện chương trình phòng chống tàn tật cho bệnh nhân Phong.
– Thực hiện dự án hợp tác giữa phòng Chỉ đạo ngành với các Hội chống Phong Hà Lan (NLR), Bỉ, Đức.
– Mở nhiều lớp tập huấn về chăm sóc bàn tay, bàn chân mất cảm giác, phòng tránh thương tích ở mắt bệnh nhân Phong cho cán bộ chuyên môn của các khu điều trị Phong và cán bộ làm công tác chống Phong.
– Tập huấn nâng cao kiến thức về bệnh Phong cho cán bộ chuyên khoa tuyến huyện tại các tỉnh trong cả nước.
– Tập huấn cho cán bộ chống phong tuyến tỉnh về chiến lược lồng ghép trong hoạt động chống phong giai đoạn mới.
– Xây dựng các tài liệu và biểu mẫu theo dõi tàn tật cho bệnh nhân Phong, mẫu Báo cáo tình hình hoạt động da liễu hàng năm, bệnh án bệnh nhân Phong, sửa mẫu M2, M3 cho phù hợp với tình hình thực tế.
– Hoàn thiện văn bản dưới luật hướng dẫn tổ chức công nhận loại trừ bệnh Phong theo 4 tiêu chuẩn của Việt Nam.
– Phân phối thuốc chống Phong, thuốc bôi ngoài da phục vụ công tác khám phát hiện bệnh Phong cho các tỉnh/thành trong cả nước.
– Giáo dục y tế toàn dân và tập huấn cho cán bộ y tế những kiến thức cơ bản về bệnh Phong ở những xã trọng điểm (xã có nhiều bệnh nhân Phong mới).
– Hàng năm tổ chức giao ban 4 phòng Chỉ đạo ngành: Viện Da liễu Quốc gia, Bệnh viện Da liễu Tp Hồ Chí Minh, Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quy Hoà; Bệnh viện Phong – Da liễu Trung ương Quỳnh Lập.
– Phân vùng dịch tễ bệnh Phong.
5. Hoạt động phòng chống bệnh LTQĐTD:
– Là tiểu ban Da liễu thuộc Cục phòng chống HIV/AIDS Bộ Y tế, Viện đã xây dựng Chương trình hành động phòng, chống các nhiễm trùng lây truyền qua đường tình dục đến năm 2010 trong khuôn khổ chương trình Y tế quốc gia phòng chống HIV/AIDS.
– Hàng năm tập huấn cho các giảng viên tuyến tỉnh về quản lí, giám sát và điều trị các nhiễm khuẩn LTQĐTD. Giám sát thương qui các bệnh LTQĐTD tại các tỉnh theo qui định của Bộ Y tế.
– Hoàn thành bộ tài liệu giảng dạy chuẩn quốc gia về quản lý bệnh LTQĐTD, các nhiễm khuẩn đường sinh sản cho chương trình chăm sóc sức khoẻ đường sinh sản của Bộ Y tế để thực hiện đào tạo trong hệ sản phụ khoa ở tuyến quận, huyện và xã, phường.
– Tham gia biên soạn tài liệu về chuẩn quốc gia điều trị nhiễm trùng cơ hội trong HIV/AIDS.
– Xây dựng quyển Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục
6. Công tác xuất bản và tuyên truyền, giáo dục y tế chuyên ngành:
– Cuốn Nội san Da liễu được ra đời sớm nhất từ tháng 10/1950 và liên tục cho tới nay, cùng với cuốn Thông tin Da liễu được Tổng hội Y học Việt Nam xuất bản đều đặn trong mấy thập kỷ qua, đã góp phần không nhỏ vào công tác “đào tạo liên tục” trong đông đảo cán bộ chuyên khoa Da liễu.
– Những sách chuyên đề về phổ biến khoa học đã được xuất bản với số bản tương đối nhiều như: “Một số kiến thức hiện đại về bệnh phong”, “Bệnh phong đầu phải nan y (Diễn Ca)”; “Tìm hiểu về bệnh Giang mai”, “Atlas bệnh lây truyền qua đường tình dục”, “Da tóc thường mắc những bệnh gì ?”; “Những bệnh nấm da thường gặp”, “Bệnh vảy nến”, “Những bệnh da có mủ”, “Bệnh da nghề nghiệp”, “Phục hồi chức năng trong bệnh phong” v.v… Mỗi đầu sách đã được Nhà xuất bản Y học in với chỉ số hàng ngàn cuốn và bán rộng rãi trong dân. Hàng chục bộ phim được ra đời kể cả phim truyện và phim đèn chiếu với những nội dung thiết thực nhằm giáo dục y tế về bệnh phong và hoa liễu cho nhân dân: (Ví dụ một vài tên phim có nhan đề: “Đâu phải nan y”; “Vẫn có ngày mai”, “Nga Sơn Thanh Hoá bệnh phong”, “Bản tình ca” nói về bệnh phong. Còn bộ phim “Trót dại” thì nói về bệnh hoa liễu, với hàng trăm bản đã được phát ra kèm theo hàng chục máy chiếu phim lưu động trên những địa bàn xa xôi hẻo lánh.
7. Thành tích nổi bật :
– Năm 1983 : Viện Da liễu đã được Nhà nước ta tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1983 : Bộ môn Da liễu đã được Bộ Y tế tặng bằng khen về thành tích giảng dạy giỏi
– Năm 1983 : Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Ba.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ được tặng thưởng Huân chương Lao động hạng Nhì.
– Năm 1994: Giáo sư Lê Kinh Duệ được Hội chống phong những nước nói tiếng Pháp (Francophonie) bầu làm Phó Chủ tịch của Hội.
– Năm 1995: Giáo sư Lê Kinh Duệ đã vinh dự được tặng giải thưởng lớn mang tên Sasakawa của WHO.
– Năm 1996: Cố Giáo sư Ŀặng Vũ Hỷ được Nhà nước truy tặng giải thưởng Hồ Chí Minh.
– Năm 2001: Viện Da liễu được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng hai.
– Năm 2002: Bộ môn Da liễu đã được tăng thưởng Huân chương lao động hạng Ba
– Năm 2003: Cố Giáo sư Viện trưởng Lê Kinh Duệ được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Độc lập hạng Nhì.
– Năm 2003: PGS. TS. Phạm Văn Hiển được Nhà nước tặng thưởng Huân chương Lao động hạng III.
Theo dalieu.vn
Giới thiệu bộ môn Da liễu – Đại học Y Hà Nội
Giới thiệu bộ môn Da liễu – Đại học Y Hà Nội
– Bộ môn Da liễu là một đơn vị của Trường Đại học Y Hà Nội. Bộ môn đã có sự gắn bó mật thiết với Bệnh viện Da liễu Trung ương qua các thời kỳ. Nhiều cán bộ của Bộ môn đã và đang đảm nhiệm các chức vụ lãnh đạo Viện, lãnh đạo các Khoa phòng. Ngược lại, các cán bộ của Bệnh viện Da liễu Trung ương cũng phối hợp với Bộ môn tham gia công tác đào tạo đại học và sau đại học. Mô hình hoạt động của Bộ môn Da liễu được trường Đại học Y Hà Nội đánh giá là một trong các mô hình kết hợp Viện – Trường mẫu mực.
1. Hoàn cảnh ra đời Bộ môn:
Năm 1935, Trường Đại Học Y Khoa Đông Dương đã thành lập Bộ Môn Da Liễu. BS. Grennilrboley được cử làm Chủ nhiệm bộ môn. Các Phó chủ nhiệm Bộ môn qua các thời kỳ bao gồm:
– 1936: BS. Nguyễn Hữu Phiến.
– 1938-1940: BS. Nguyễn Văn Chính (chuyên về lâm sàng) và BS. Huỳnh Kham (chuyên về xét nghiệm).
– 1941-1945: BS. Ngô Như Hòa
Sau ngày giải Phóng Thủ đô (10/10/1954). GS. Đặng Vũ Hỷ cùng một số cán bộ được phân công tiếp quản Khoa Da Liễu nằm trong BV Bạch Mai và trở thành vị Chủ nhiệm khoa đầu tiên của Khoa Da Liễu, kiêm Chủ nhiệm Bộ môn Da Liễu của Trường Đại Học Y Dược, Hà Nội.
Năm 1955, BS. Lê Kinh Duệ chuyển từ Quân y sang Bộ Môn. Năm 1959, 1960, 1961 Bộ Môn lần lượt được nhận thêm BS. Nguyễn Thị Đào, BS. Lê Tử Vân, BS. Nguyễn Văn Điền. Từ một Bộ môn chỉ có vài cán bộ, với công sức của các vị chủ nhiệm, các cán bộ trong Bộ môn kế tiếp nhau làm việc không mệt mỏi, Bộ Môn Da liễu đã dần dần trưởng thành lớn mạnh cả về số lượng, chất lượng chuyên môn, chính trị.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng uỷ, ban giám hiệu trường ĐHYHN, Bộ Môn Da Liễu ngày nay đã đảm nhận các chương trình đào tạo Đại học, Sau đại học và các đối tượng khác để cùng Bệnh viện Da liễu Trung ương, ngành Da liễu tạo dựng nên hệ thống mạng lưới chuyên khoa Da Liễu từ trung ương đến cơ sở, từ thành thị đến nông thôn trên toàn quốc góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của toàn ngành.
2. Chức năng nhiệm vụ:
Bộ Môn Da liễu được giao thực hiện các nhiệm vụ chính trị sau:
* Đào tạo cán bộ.
* Nghiên cứu khoa học.
* Điều trị bệnh nhân.
* Biên soạn và xuất bản tài liệu giảng dạy, nghiên cứu.
* Công tác ngành.
* Công tác khác.
alt
Buổi giao ban hàng tuần của Bộ môn
3. Lãnh đạo Bộ môn:
Các chủ nhiệm Bộ môn
– Từ 1945 – 1972: GS. Đặng Vũ Hỷ.
– Từ 1973 – 1997: GS. Lê Kinh Duệ.
– Từ 1998 – 2008: chúng tôi Phạm Văn Hiển
– Từ 2009 – nay : chúng tôi Trần Hậu Khang
Ban chủ nhiệm Bộ môn hiện nay
PGS. TS Trần Hậu Khang: Chủ Nhiệm Bộ môn kiêm Giám đốc Bệnh viện Da liễu Trung ương
PGS.TS. Trần Lan Anh : Phó Chủ Nhiệm Bộ môn kiêm Trưởng Phòng Đào Tạo – NCKH Bệnh viện Da liễu Trung ương
Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương
1. Đại cương Paget là bệnh lí ung thư của biểu mô tuyến apocrin lớp thượng bì. Bệnh được mô tả lần đầu tiên bởi James Paget vào năm 1874. Bệnh được chia làm 2 thể chính là Paget tại vú và Paget ngoài vú. Mặc dù chia làm 2 thể, tuy nhiên biểu hiện lâm sàng của 2 thể giống nhau, chỉ khác nhau về vị trí. Bệnh Paget thường dễ chẩn đoán nhầm với các bệnh lí khác. Điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật.
Paget là bệnh lí ung thư của biểu mô tuyến apocrin lớp thượng bì. Bệnh được mô tả lần đầu tiên bởi James Paget vào năm 1874. Bệnh được chia làm 2 thể chính là Paget tại vú và Paget ngoài vú. Mặc dù chia làm 2 thể, tuy nhiên biểu hiện lâm sàng của 2 thể giống nhau, chỉ khác nhau về vị trí. Bệnh Paget thường dễ chẩn đoán nhầm với các bệnh lí khác. Điều trị chủ yếu bằng phẫu thuật.
2. Paget vú Bệnh thường gặp ở phụ nữ trên 50 tuổi. Vị trí hay gặp thường một bên vú, tổn thương có thể xuất hiện lan rộng cả quầng vú xung quanh. Bệnh đặc trưng là các dát đỏ dạng eczema, có vảy da, ranh giới rõ với xung quanh, khi vảy da được loại bỏ để lại một nền ẩm ướt, rỉ dịch. Kèm theo đó có thể sờ thấy hạch và khối u bên đối diện. Bệnh thường kết hợp với ung thư tuyến vú (chiếm 98% trong các trường hợp).
Hình 1-2: Bệnh Paget vú, tổn thương dát đỏ, có vảy da ranh giới rõ so với xung quanh vị trí vùng vú (nguồn ảnh: Dermnetnz)
3. Paget ngoài vú Trong khi đó Paget ngoài vú còn chia làm 2 thể: Paget ngoài vú tiên phát và Paget ngoài vú thứ phát. – Bệnh hay gặp trong khoảng 60-80 tuổi, nữ giới thường gặp hơn là nam giới. Tổn thương xuất hiện vùng phân bố của tuyến apocrin như âm hộ nữ giới (76%), dương vật, bìu, quanh hậu môn, nách. Tổn thương là các dát đỏ nền ẩm ướt ri dịch.
Hình 3: Paget ngoài vú ở bệnh nhân nữ 62 tuổi, tổn thương là dát đỏ ranh giới tương đối rõ, nền ẩm ướt rỉ dịch (nguồn: BSNT Nguyễn Thị Mai, Bệnh viện Da liễu Trung ương)
4. Cận lâm sàng: 4.1. Mô bệnh học Đặc trưng là các tế bào Paget: tế bào dạng tuyến không điển hình, phân bố ngẫu nhiên trong thượng bì, nhân rộng chiếm ưu thế, hạt nhân đậm, bào tương nhạt màu, mất cầu nối giữa các tế bào. Phân bố vùng thượng bì, nang tóc, ống tuyến mồ hôi, có hiện tượng tăng gai, dày sừng và á sừng, nhuộm PAS(+). 4.2. Hóa mô miễn dịch
(MPD: Paget tại vú, EMPD: Paget ngoài vú)
5. Chẩn đoán phân biệt – Cần chẩn đoán bệnh Paget tại vú với: chàm núm vú, vảy nến, nấm da, bệnh Bowen, u hắc tố…. – Phân biệt Paget ngoài vú với: nấm da, nấm vùng đùi, vảy nến, Bowen, hồng sản Queyrat, viêm da dầu, lichen xơ teo, ….6. Chẩn đoán xác định Dựa vào – Lâm sàng: vị trí, đặc điểm tổn thương đặc trưng – Tổn thương kéo dài, không đáp ứng với điều trị thông thường – Mô bệnh học – Nhuộm hóa mô miễn dịch với maker đặc hiệu7. Tiên lượng – Paget vú: tỷ lệ sống trên 10 năm. Trường hợp có di căn hạch là 20-45%, và khi có khối u vú 35-51% bệnh nhân sống sau 5 năm. – Paget ngoài vú: tiên lượng sống phụ thuộc vào nhiều yếu tố bao gồm tổn thương khu trú thượng bì, độ sâu xâm lấn, di căn hạch vùng, CEA, EMPD vùng âm vật, khối u nguyên phát…8. Điều trị và theo dõi sau điều trị – Điều trị ưu tiên là cắt rộng loại bỏ khối u, có hoặc không kèm theo vét hạch, hoặc phẫu thuật Mohs – Các sự lựa chọn khác: liệu pháp tia xạ, hóa chất, imiquimod…. – Trong 2 năm đầu, bệnh nhân nên được theo dõi mỗi 3 tháng, tiếp đến là hàng năm.
Bài và ảnh: BSNT.Nguyễn Thị Mai, Khoa Chẩn đoán hình ảnh Bệnh viện da liễu TWĐăng tin: Phòng CNTT&GDYT
Giới Thiệu Khoa Da Liễu
Giới thiệu Khoa Da liễu
KHOA DA LIỄU – DỊ ỨNG MIỄN DỊCH LÂM SÀNGSố điện thoại: 02223 500 398 Email:k.dalieu.bvdkbn@gmail.com1. Lịch sử phát triển khoa: – Năm 1982 khi có 01 bác sĩ CK sơ bộ Da Liễu, đã thành lập 01 phòng khám Da Liễu trực thuộc phòng khám đa Khoa Tỉnh Bắc Ninh – Năm 1986 có 01 Bác sĩ đi học CKI Da Liễu về. Khoa Da Liễu đựoc thành lập đựơc tách ra từ khoa Nội Tổng hợp của Bệnh viện đa khoa Tỉnh Bắc Ninh gổm 01 Bác sĩ CKI Da Liễu (Trưởng khoa) và 03 điều dưỡng trung cấp với số giường bệnh là 05 giường và 01 bàn khám Da Liễu – Năm 1997 sau tách tỉnh Bắc Ninh khoa Da Liễu đã có 02 BS CKI Da Liễu và 05 điều dưỡng, với 15 giường bệnh, 01 bàn khám chuyên sâu Da Liễu điều trị ngoại trú các bệnh da mãn tính – Từ năm 1997 đến nay cùng với sự phát triển của bệnh viện, để đáp ứng nhu cầu khám và chữa bệnh cho nhân dân trong tỉnh và các khu vực lân cận Khoa Da Liễu – Dị ứng Miễn dịch lâm sàng không ngừng phát triển và không ngừng nâng cao chất lượng khám và điều trị. – Đến tháng 12/2015 Bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh xứng đáng là bệnh viện hạng I với quy mô 1000 giường bệnh – Đến 1/11/2017 Quyết định của Giám đốc bệnh viện đa khoa tỉnh Bắc Ninh thành lập khoa mới: ” Da Liễu – Dị ứng Miễn dịch lâm sàng” – Với chỉ tiêu giường bệnh 35 giường, thực kê: 38 giường, điều trị các bệnh da, các bệnh Dị ứng Miễn dịch, các bệnh lây truyền qua đưòng tình dục, nhất là nhóm bệnh hệ thống như Lupus ban đỏ, xơ cứng bì, vẩy nến, dị ứng thuốc…đồng thời phát triển về chuyên môn kỹ thuật, đưa các kỹ thuật mới vào điều trị + Đưa Laser CO2 vào điều trị + Tư vấn, điều trị thẩm mỹ và làm đẹp + Quản lý và điều trị tốt các bệnh lây truyền qua đường tình dục Với điều kiện hiện nay, mặc dù nhân lực, trang thiết bị còn gặp nhiều khó khăn và thiếu thốn. Song với sự nỗ lực, cố gắng, đoàn kết của cả tập thể khoa nên khoa đã từng bước đựoc nâng cao về trình độ chuyên môn, đáp ứng đựoc nhu cầu khám và điều trị bệnh nhân2. Chức năng nhiệm vụ:
– Thạc sĩ Dị ứng Miễn dịch lâm sàng: 01 – BS CKI Da Liễu: 03 – BS đa khoa: 01 – CNĐD: 02 – ĐDTC: 01
– Gồm 09 phòng bệnh với 38 giường bệnh thực kê ( Trong đó 01 phòng cấp cứu bệnh nhân nặng) – 01 phòng giao ban cán bộ – 01 phòng Laser CO2 và Plasma điều trị bệnh da ( Đặt tại PK) – 01 phòng Laser chiếu ngoài – 04 phòng chức năng khác2.3. Chức năng nhiệm vụ chính:– Công tác khám chữa bệnh cả nội trú và ngoại trú đựoc thực hiện rất tốt cho nhân dân trong và ngoài tỉnh – Rút ngắn đựoc thời gian điều trị nội, giảm thiểu chi phí cho bệnh nhân và chống quá tải trong bệnh viện – Với tinh thần trách nhiệm cao trong công việc, chuyên môn vữmg vàng, toàn khoa thực hiện tốt y đức giao tiếp cũng như nội quy, quy chế của ngành dề ra3. Kết quả hoạt động chính3.1. Các kỹ thuật chuyên môn chính đã triển khai có hiệu quả: – Điều trị các bệnh da bằng Laser, đốt Plasma ( nám da, trai cá, sẹo lõm, mụn ruồi sùi mào gà, …) – Chăm sóc các bệnh da nặng – Chiếu chia hồng ngoại trong điều trị các bệnh da mãn tính – Điều trị các bệnh da bằng Laser chiếu ngoài3.2. Công tác chăm sóc phục vụ người bệnh: – Thực hiện mô hình chăm sóc theo đội – Tư vấn, giáo dục sức khoẻ, chăm sóc và làm đẹp các bệnh về da – Thực hiện y đức giao tiếp tốt với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân3.3. Công tác thông tin tuyên truyền: cho người bệnh và người nhà người bệnh – Tư vấn, giáo dục, tuyên truyền cho bệnh nhân và người nhà bệnh nhân cách phòng bệnh lây truiyền qua đường tình dục – Phát cho bệnh nhân tờ ápphíc giáo dục sức khoẻ cho từng mặt bệnh khi bệnh nhân ra viện
(Đã ký)
Nguyễn Xuân Trường Quản trị tin tức
Bảng Giá Bệnh Viện Da Liễu Trung Ương 2022
Bệnh viện da liễu Trung Ương khám thường, khám có bảo hiểm và khám dịch vụ chuyên trị các bệnh da liễu hay gặp với chi tiết giá khám, xét nghiệm, điều trị chi tiết bên dưới.
Bệnh viện da liễu Trung Ương
Địa chỉ: 15A – Phương Mai – Quận Đống Đa – Hà Nội
Điện thoại: 04.35764626 – 04.35764627
Lịch khám bệnh chi tiết của Bệnh viện Da liễu Trung ương
Trước khi khám chữa bệnh tại Bệnh Viện Da Liễu Trung ương – 15A Phương Mai, Đống Đa, Hà Nội, bạn đọc nên theo dõi lịch khám của các giáo sư, phó giáo sư, bác sĩ để không mất nhiều thời gian và tránh tình trạng mệt mỏi vì chờ đợi.
Khám giáo sư / phó giáo sư: Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần, sáng từ 6:30 đến 11:30, chiều từ: 13:30 đến 16:30
Khám trong giờ (gồm khám thường, khám dịch vụ, khám bảo hiểm): Từ thứ 2 đến thứ 6 hàng tuần, sáng từ 6:30 đến 11:30, chiều từ: 13:30 đến 16:30
Quy trình khám bệnh tại Bệnh viện Da liễu Trung ương
Bệnh nhân bắt đầu quá trình khám chữa bệnh bằng cách đăng ký thông tin cá nhân tại bàn hướng dẫn. Sau đó, nhân viên bệnh viện sẽ trực tiếp hướng dẫn cách đăng ký khám tại tại các bàn tiếp đón bệnh nhân.
Khu vực khám bệnh theo yêu cầu yêu cầu những thủ tục sau
Bệnh nhân tiến hành đăng ký khám tại khu vực khám bệnh theo yêu cầu cầu và được phân vào các phòng khám
Khu vực khám bệnh theo yêu cầu bao gồm các phòng từ 1 đến 9
Đa phần các kết quả xét nghiệm sẽ được chuyển đến cho bệnh nhân trong ngày.
Bệnh nhân đăng ký khám bệnh tại các bàn tiếp đón từ 1 đến 7. Sau đó, nhân viên bệnh viện sẽ phân bệnh nhân vào các phòng khám khác nhau. Trong đó:
Bàn tiếp đón bệnh nhân đến khám: Bàn 1, 3 và 4
Bàn nộp tiền khám và xét nghiệm: Bàn 2 và bàn 6
Bàn đăng ký khám bảo hiểm y tế: Bàn 5
Bàn thanh toán bệnh nhân ra vào viện: Bàn 7.
Các phòng khám bệnh khu vực tự nguyện bao gồm: Phòng 5, 10, 11, 12, 13, 14 và 15
Đối với bệnh nhân khám chữa bệnh bằng bảo hiểm y tế cần đặc biệt lưu ý là mang theo đầy đủ giấy tờ tùy thân như chứng minh thư nhân dân, thẻ học sinh, sinh viên hay giấy chuyển viện…
Giá khám chữa bệnh tại Bệnh viện Da liễu Trung ương
Theo bảng giá mới nhất được cập nhật vào 04/07/2017, chi phí khám chữa bệnh tại Bệnh viện Da liễu Trung ương như sau:
Tiền khám
Đơn giá: 30.000 đồng
Giá Bảo hiểm y tế: 20.000 đồng
giá khám dịch vụ: 100.000 đồng
giá khám ngoài giờ: 100.000 đồng
Bảo hiểm y tế chi trả: 100%
Hội chẩn để xác định bệnh khó
Đơn giá: 200.000 đồng
Giá Bảo hiểm y tế: 200.000 đồng
giá khám dịch vụ: 200.000 đồng
giá khám ngoài giờ: 200.000 đồng
Bảo hiểm y tế chi trả: 100%
Mục bảo hiểm y tế không chi trả
Khám bệnh với phó giáo sư:
Giá dịch vụ: 250.000 đồng
Giá ngoài giờ: 300.000 đồng
Khám bệnh với giáo sư:
Giá dịch vụ: 350.000 đồng
Giá ngoài giờ: 500.000 đồng
tu khoa
bệnh viện da liễu trung ương
bệnh viện da liễu trung ương chữa sùi mào gà
benh vien da lieu trung uong ha noi
khám da liễu ở hà nội
Bài viết Bảng giá bệnh viện da liễu Trung Ương 2017 đã xuất hiện đầu tiên vào ngày .
Bạn đang đọc nội dung bài viết Giới Thiệu Viện Da Liễu Trung Ương trên website Growcaohonthongminhhon.com. Hy vọng một phần nào đó những thông tin mà chúng tôi đã cung cấp là rất hữu ích với bạn. Nếu nội dung bài viết hay, ý nghĩa bạn hãy chia sẻ với bạn bè của mình và luôn theo dõi, ủng hộ chúng tôi để cập nhật những thông tin mới nhất. Chúc bạn một ngày tốt lành!