Top 7 # Xem Nhiều Nhất Marker Ung Thư Xương Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Growcaohonthongminhhon.com

Chất Chỉ Điểm Ung Thư (Cancer Markers)

29-02-2012

Chất chỉ điểm ung thư là những chất do các tế bào ung thư hoặc các tế bào khác của cơ thể sản xuất đáp ứng với ung thư hoặc một số bệnh lành tính. Hầu hết chất chỉ điểm ung thư vẫn được các tế bào bình thường sản xuất nhưng lượng các chất này sẽ tăng rất nhiều trong trường hợp ung thư. Có thể phát hiện chất chỉ điểm ung thư trong máu, nước tiểu, phân, tổ chức u hay các tổ chức khác, hoặc trong dịch cơ thể của một số bệnh nhân ung thư.

– Hầu hết chất chỉ điểm ung thư là những protein nghĩa là có tính kháng nguyên nhưng không phải tất cả các kháng nguyên ung thư đều có thể dùng như là chất chỉ điểm ung thư.

II. Vai trò của chất chỉ điểm ung thư:

– Các chất chỉ điểm ung thư được dùng để phát hiện,chẩn đoán và theo dõi điều trị một số bệnh ung thư.Dù một lượng cao chất chỉ điểm ung thư có thể gợi ý một trường hợp ung thư, chỉ một mình xét nghiệm này không đủ để xác định chẩn đoán ung thư mà phải kết hợp với các kết quả lâm sàng và cận lâm sàng khác như sinh thiết,chẩn đoán hìnhảnh…

– Định lượng chất chỉ điểm ung thư trước điều trị giúp bác sĩ điều trị lập kế hoạch điều trị thích hợp.Trong một số trường hợp ung thư,lượng chất chỉ điểm ung thư phản ánh giai đoạn (mức độ lan rộng) của bệnh và /tiên lượng bệnh nhân (diễn tiến và kết quả ).

– Cũng có thể định lượng định kỳ chất chỉ điểm ung thư trong thời gian điều trị ung thư để theo dõi và kiểm tra hiệu quả điều trị.

– Sau khi chấm dứt điều trị,định lượng chất chỉ điểm ung thư giúp theo dõi và phát hiện tái phát.

III. Có thể sử dụng các chất chỉ điểm ung thư để sàng lọc ung thư không?

– Vì có thể sử dụngcác chất chỉ điểm ung thư để đánh giá đáp ứng của ung thư với điều trị và tiên lượng bệnh,các nhà nghiên cứu hy vọng chúng cũng hữu ích trong các xét nghiệm sàng lọc nhằm phát hiện sớm ung thư trước khi các triệu chứng xuất hiện.

– Muốn đáp ứngđược yêu cầu này,các xét nghiệm sàng lọc phải có độ nhạy rất cao ( có thể xác định chính xác có bệnh) và tính đặc hiệu rất cao (có khả năng xác định chính xác không bị bệnh).Nếu một xét nghiệm có độ nhạy cao,xét nghiệm này sẽ nhận biết hầu hết những người bị bệnh,nghĩa là rất ít khi cho kết quả âm tính giả.Nếu xét nghiệm có tính đặc hiệu cao,sẽ có rất ít người có kết quả dương tính mà không bị bệnh,nói cách khác, có rất ít kết quả dương tính giả.

– Dù các các chất chỉ điểm ung thư vô cùng hữu ích trong việc xác định ung thư có đáp ứng vói điều trị hay không,hoặc đánh giá nguy cơ tái phát, cho đến nay vẫn chưa có một xét nghiệm phát hiện chất chỉ điểm ung thư nào có độ nhạy và tính đặc hiệu đủ để dùng trong việc sàng lọc ung thư.

– Đã có nhiều công trình nghiên cứu có hệ thống đánh giá khả năng này,ví dụ với PSA hay CA 125,nhưng kết quả cho thấy các chất chỉ điểm ung thư này cũng tăng trong những bệnh lành tính. Do đó ngày nay, các nhà nghiên cứu đã chuyển hướng sang một lĩnh vực mói có tên là proteomics,chuyên nghiên cứu cấu trúc,chức năng và hình thức biểu lộ của protein,và hy vọng sẽ có được các chất chỉ điểm sinh học có khả năng nhận ra bệnh ung thư ở giai đoạn sớm,tiên đoán hiệu quả của điều trị và đánh giá được nguy cơ tái phát sau khi chấm dứt điều trị.

IV. Các chất chỉ điểm ung thư đang được sử dụng:

1. Tái phối trí gen ALK: Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ,u lympho tế bào lớn.

2. Alpha-fetoprotein (AFP): Ung thư gan (HCC),ung thư tế bào mầm.

3. Beta-2-microglobulin(B2M): Đa u tủy,lơxêmi kinh dòng lymphô,một vài u lymphô.

4. Beta-hCG: Choriocarcinoma, ung thư tinh hoàn.

5. BCR-ABL: Lơxêmi kinh dòng tủy.

6. Đột biếnV600E BRAF: U sắc tô da, ung thư đại tràng.

7. CA 15.3/CA 27,29: Ung thư vú

8. CA 19.9: Ung thư tụy,ung thư đại tràng,một số ung thư tiêu hóa (túi mật,ống mật,dạ dày)

9. CA 125: Ung thư buồng trứng.

10. Calcitonin: Ung thư tủy tuyến giáp.

11. Calretinin: Mesothelioma,sex cord-gonadal stromal tumor,adrenocortical carcinoma,synovial sarcoma.

12. Carcinoembrionic antigen(CEA): Ung thư đường tiêu hóa,ung thư cổ tử cung,ung thư phổi,ung thư buồng trứng,ung thư vú,ung thư đường tiết niệu.

13. CD 20: U lymphô không Hodgkin.

14. CD 34: Hemangiopericytoma/solitary fibrous tumor,pleomorphic lipoma,gastro- intetsinal stromal tumor,dermatofibrosarcoma protuberans.

15. CD45(PTPRC): U lymphô,lơxêmi,hystiocytic tumor.

16. CD 99: Ewing sacoma,primitive neuroectodermal tumor,hemangiopericytoma/ solitary fibrous tumor, synovial sarcoma,lymphoma,leukemia, sex cord-gonadal stromal tumor.

17. CD 117: Gastrointesstinal stromal tumor,mastocytosis,seminoma.

18. Chromogranin A: Neuroendocrine tumor.

19. NST 3,7,17 và 9p21: Ung thư bàng quang.

20. Cytokeratin fragment 21-1(CYFRA 21-1): Ung thư phổi

21. Desmin: Sarcoma cơ trơn, sarcoma cơ vân,endometrial stromal sarcoma.

22. Epithelial membrane protein(EMA): Nhiều loại sarcoma,meningioma,nhiều loại carcinoma.

23. Phân tích đột biến EGFR: Ung thư phổi không phải tế bào nhỏ.

24. Thụ thể Estrogen/thụ thể Progesterone:Ung thư vú

25. Fibrin/Fibrinogen: Ung thư bàng quang.

26. Yếu tố VIII,CD 31 FL1: Sarcoma mạch máu.

27. Glial fibrillary acidic protein (GFAP): Glioma(astrocytoma,ependynoma)

28. Gross cystic disease fluid protein(GCDFP-15): Ung thư vú,ung thư buồng trứng, ung thư tuyến nước bọt.

29. HE4: Ung thư buống trứng

30. HER2/neu: ung thư vú,ung thư dạ dày,ung thư thực quản.

31 . HMB45: U sắc tố,PEComa(ví dụ angiomyolipoma),clear cell carcinoma, adrenocortical carcinoma.

32. Immunoglobulin:Đa u tủy(bệnh Kahler),bệnh Waldenstrom.

33. Inhibin: Sex cord-gonadal stromal tumor, adrenocortical carcinoma, hemangio- blastoma.

34. Phân tích đột biến KRAS: Ung thư đại tràng,ung thư phổi không phải tế bào nhỏ.

35. KIT: Gastrointestinal stromal tumor,mucosal melanoma.

36. Lactate dehydrogenase (LDH): Ung thư tế bào mầm.

37. MART-1(Melan-A): U sắc tố,u do steroid gây nên (adrenocortical carcinoma, hemangioblastoma).

38. Myo D1: Rhabdomyosarcoma,small,round,blue cell tumor.

39. Muscle-specific-actin(MSA): Myosarcoma (sarcoma cơ trơn, sarcoma cơ vân).

40. Nuclear matrix protein 22: Ung thư bàng quang.

41. Neurofilament: Neuroendocrine tumor, ung thư phổi tế bào nhỏ.

42. Neuron-specific enolase(NSE): Neuroendocrine tumor, ung thư phổi tế bào nhỏ, ung thư vú.

43. Placental alkaline phosphatase(PLAP): Seminoma,dysgerminoma,embryonal carcinoma.

44. Prostate-specific antigen(PSA): Ung thư tuyến tiền liệt.

45. S100 protein: Sarcoma(neurosarcoma,lipoma,chondrosarcoma),astrocytoma, gastrointestinal stromal tumor,ung thư tuyến nước bọt,một vài loại adenocarcinoma, hitiocytic tumor(dendritic cell,macrophage),u sắc tố.

46. Smooth muscle actin(SMA): Gastrointestinal stromal tumor,sacoma cơ trơn, PCComa.

47. Synaptophysin: Neuroendocrine tumor

48. Thyroglobulin:Ung thư tuyến giáp(không thấy trong ung thư tủy tuyến giáp)

49. Tumor M2-PK:Ung thư đại tràng,vú,thận,phổi,tụy,thực quản,dạ dày,cỏ tử cung,buồng trứng.

50. Vimentin: Sarcoma,carcinoma tế bào thận,ung thư nội mạc tử cung,carcinoma phổi,u lymphô,lơxêmi,u sắc tố.

V. Các chất chỉ điểm ung thư phổ biến:

1. Alpha-fetoprotein(AFP):là protein bình thường chính,thành phần chủ yếu của huyết tương bào thai,do gan,túi noãn hoàng sản xuất,có cấu trúc chuỗi giống với albumin.

– Lượng AFP đạt mức tối đa vào cuối tuần thứ 12 của thai kỳ (khoảng 3mg/ml), sau đó giảm dần đến lượng bình thường của người lớn vào tháng thứ 8-12 sau khi sinh.

– Ở phụ nữ có thai, định lượng AFP trong máu hoặc nước ối là một trong những xét nghiệm sàng lọc các dị tật bẩm sinh: AFP tăng trong khuyết tật hở ống thần kinh,thoát vị rốn và giảm trong hội chứng Down.

– AFP là chất chỉ điểm ung thư của ung thư gan (HCC) và ung thư tế bào mầm. Tuy nhiên AFP cũng tăng ở phụ nữ có thai bình thường và trong một số bệnh gan lành tính (viêm gan,xơ gan…).

2. Human chorionic gonadotrop(h)ine(HCG): là một nội tiết tố glycoprotein được sảnxuất trong thời kỳ thai nghén do phôi vừa thụ thai và sau đó, do syncytiotrophoblast (một phần của nhau thai).Một số khối u ung thư cũng sản xuất nội tiết tố này, do đó ở những người không có thai,những lượng lớn HCG có thể cho phép chẩn đoán ung thư. Tuyến não thùy của nam giới lẫn nữ giới cũng sản xuất một chất giống HCG gọi là luteinizing hormone(LH).

– HCG tương tác với thụ thể LHCG và khởi động việc duy trì thể vàng(corpus luteum) trong suốt thời kỳ đầu của thai kỳ,l àm chúng sản xuất nội tiết tố progesterone.Nội tiết tố này tạo cho tử cung một hệ thống dày đặc mạch máu và mao mạch nhằm duy trì sự phát triển của bào thai.

– Rất giống LH, HCG cũng được dùng trên lâm sàng để tạo rụng trứng ở buồng trứng cũng như sản xuất testosterone ở tinh hoàn.

– HCG cũng giữ vai trò trong sự biệt hóa /tăng sinh tế bào và có thể hoạt hóa hiện tượng cái chết theo chương trình.

– HCG có thể được sử dụng như chất chỉ điểm ung thư của một số ung thư như seminoma,choriocarcinoma,u tế bào mầm,thai trứng,u quái ,islet cell tumorvà ung thư tinh hoàn.Kết hợp với AFP,HCG là một chất chỉ điểm ung thư tuyệt vời để theo dõi u tế bào mầm.

– Dù được phát hiện đầu tiên trong ung thư đại tràng,lượng CEA tăng cao không đặc hiệu cho ung thư đại tràng lẫn các bệnh ung thư nói chung.Ngoài ung thư đại tràng,CEA cũng tăng cao trong ung thư tụy, ung thư dạ dày, ung thư phổi và ung thư vú.CEA cũng tăng cao trong mốt số bệnh lành tính như xơ gan,viêm ruột,bệnh phổi mạn tính và viêm tụy. CEA cũng tăng ở 19% người hút thuốc và 3% người chứng khỏe mạnh bình thường.

– Tuy không đủ khả năng sàng lọc ung thư cho quần thể người khỏe mạnh,CEA rất được dùng để theo dõi tái phát vì có thể báo trước tái phát đến nhiều tháng.

4. Prostate- specific antigen(PSA):là một glycoprotein do tế bào biểu mô của tuyến tiền liệt tiết ra,có chức năng làm cục đông tinh dịch loãng ra,tạo điều kiện để tinh trùng có thể bơi tự do trong tinh dịch.Người ta cũng tin rằng PSA làm loãng dịch nhầy cổ tử cung, giúp tinh trùng dễ xâm nhập.

– Ở người bình thường lượng PSA trong máu rất thấp.Lượng PSA tăng cao gợi ý có ung thư tuyến tiền liệt.Tuy nhiên cũng có trường hợp bệnh nhân bị ung thư tuyến tiền liệt nhưng lượng PSA không tăng (âm tính giả)

– PSA cũng có thể tăng trong viêm tuyến tiền liệt,tăng sản tuyến tiền liệt hoặc khi vừa mới xuất tinh(dương tính giả).

– Hầu hết PSA trong máu đều gắn vào protein, trừ một lượng rất ít gọi là PSA tự do.Ở người bị ung thư tuyến tiền liệt ,tỷ lệ PSA tự do/PSA toàn phần(f PSA/t PSA)giảm.Nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt tăng nếu tỷ lệ này nhỏ hơn 25%.Tỷ lệ này càng thấp thì nguy cơ bị ung thư tuyến tiền liệt càng cao.

5. CA 125: là kháng nguyên có mặt trong 80% trường hợp ung thư buồng trứng,CA 125 là chất chỉ điểm ung thư được phát hiện bởi kháng thể đơn dòng OC125 được sản xuất bằng cách gây miễn dịch chuột bằng tế bào ung thư buồng trứng người.CA125 lưu hành trong máu bệnh nhân,do đó được dùng như một chất chỉ điểm ung thư.

– Ca125 là chất chỉ điểm ung thư được sử dụng rộng rãi trong việc phát hiện và theo dõi ung thư hệ sinh sản ở phụ nữ,bao gồm ung thư tử cung, vòi trứng và buồng trứng. CA125 cũng tăng trong ung thư tụy, phổi, vú và đại tràng. Tuy nhiên cần lưu ý là CA125 cũng tăng ở phụ nữ có thai hoặc trong kỳ kinh, cũng như trong một số bệnh không phải là ung thư như u nang buồng trứng, endometriose, viêm màng ngoài tim, viêm gan, xơ gan, viêm phúc mạc và ngay cả ở 1-2% người bình thường.

– Trong trường hợp ung thư đã được chẩn đoán, lượng CA125 được xem là chất biểu thị

cho biết hiệu quả của điều trị.

6. CA15.3: thường tăng trong ung thư vú nhưng cũng tăng trong nhiều bệnh không phải là ung thư như xơ gan,bệnh lành tính của vú và buồng trứng.

7. CA19.9:tăng trong 21-42% trường hợp ung thư dạ dày, 20-40 trường hợp ung thư đại tràng,71-93% ung thư tụy.

8. CA 72.4: được tìm thấy trong tế bào biểu bì bào thai.Lượng CA72.4 ở người lớn bình thường vào khoảng 2-4 IU/ml.

– CA72.4 là chất chỉ điểm ung thư có tính đặc hiệu cao.Lượng CA72.4 tăng trong ung thư dạ dày.Kết hợp với CEA,đây là xét nghiệm có độ nhạy và tính đặc hiệu cao.

– Ca72.4 cũng tăng trong ung thư buồng trứng.Nhưng đôi khi,trong những trường hợp viêm lành tính,lượng CA72.4 cũng tăng đến 7 IU/ml.

BS. NGUYỄN ĐÌNH ÁI

Marker Ung Thư Cea Và Ung Thư Đại Trực Tràng

Xét nghiệm marker ung thư CEA thường được chỉ định để chẩn đoán nhiều loại ung thư đặc biệt là ung thư đại trực tràng – một trong những loại ung thư thường gặp nhất ở Việt Nam.

Marker ung thư CEA là gì?

CEA là tên viết tắt của kháng nguyên carcinoembryonic. CEA có thể tìm thấy trong nhiều tế bào khác nhau của cơ thể, nhưng thường liên kết với các khối u nhất định và sự phát triển của thai nhi.

Xét nghiệm marker ung thư CEA

– Giá trị trong chẩn đoán, sàng lọc bệnh

+ CEA có thể tăng trong các trường hợp bị ung thư vú, ung thư phổi, ung thư tụy tạng, nhiễm trùng phổi, hút thuốc lá,… đặc biệt là ung thư đại tràng;

+ CEA cũng có thể tăng khi có khối u lành tính và ác tính ở đường tiêu hoá.

– Giá trị đánh giá hiệu quả điều trị: trong quá trình điều trị nếu:

+ Nồng độ CEA giảm, khả năng biện pháp điều trị có hiệu quả;

+ Trường hợp nồng độ CEA tăng, khả năng đáp ứng điều trị kém nên cần xem xét tìm phương pháp điều trị khác. Ví dụ: bệnh nhân có CEA tăng, sau phẫu thuật giảm hoặc trở về bình thường, điều này nói lên khối u đã được cắt bỏ. Trái lại, CEA vẫn tiếp tục tăng cao sau phẫu thuật nói lên ung thư còn tồn dư.

– Có giá trị theo dõi bệnh: nồng độ CEA tăng, khả năng bệnh tái phát hoặc có di căn.

– Giá trị tiên lượng: nồng độ CEA trước mổ cao là một yếu tố dự đoán cho một tiên lượng xấu đối với bệnh nhân.

Ung thư đại trực tràng

Ung thư đại – trực tràng là loại ung thư đứng hàng thứ 5 trong số các loại ung thư thường gặp tại Việt Nam.

Ung thư đại trực tràng một trong 5 loại ung thư thường gặp nhất

Để chẩn đoán bệnh, ngoài việc dựa vào các dấu hiệu như rối loạn tiêu hóa (tiêu chảy, táo bón không rõ nguyên nhân), phân có máu, đau bụng không rõ nguyên nhân, chán ăn, sụt cân,… còn cần dựa vào xét nghiệm máu CEA.

Xét nghiệm CEA có giá trị tăng ít, dưới 10 lần: thường gặp trong viêm loét hoặc polyp đại tràng, bệnh viêm ruột, dạ dày, viêm tụy,… Vì vậy, bệnh nhân nên nội soi đại tràng hoặc làm lại xét nghiệm CEA sau 1-2 tháng.

Tại Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC, để đáp ứng nhu cầu của người dân, Bệnh viện đã triển khai xét nghiệm CEA trên hệ thống máy Cobas 8000, máy miễn dịch Architect (Abbott, Mỹ) nên luôn bảo đảm chính xác và thời gian trả kết quả nhanh chóng.

Hệ thống máy Cobas 8000 và Architect (Abbott, Mỹ) của Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC

Các dấu ấn ung thư được sử dụng trong chẩn đoán các loại ung thư

Marker He4: Dấu Ấn Ung Thư Buồng Trứng Độ Nhạy Cao

Ung thư buồng trứng là nguyên nhân tử vong thứ tư do các ung thư nói chung ở phụ nữ trên thế giới. Đây là dạng gây tử vong nhiều nhất trong số các ung thư vùng chậu hông nhưng có khả năng điều trị hiệu quả nếu được chẩn đoán sớm.

Trong những năm qua, dấu ấn ung thư CA 125 được sử dụng rộng rãi trong chẩn đoán ung thư buồng trứng. Tuy nhiên, độ nhạy và độ đặc hiệu của nó chưa đáp ứng được đòi hỏi của chẩn đoán lâm sàng vì nó chỉ tăng lên ở khoảng 80% ung thư buồng trứng thể biểu mô và dưới 50% ở giai đoạn sớm.

Mới đây, HE4 (Human epididymal protein 4, tiếng Việt gọi là protein mào tinh hoàn người 4) có độ nhạy và độ đặc hiệu cao đối với ung thư buồng trứng, đặc biệt là ở giai đoạn I – giai đoạn không triệu chứng – đã được đưa vào sử dụng trong lâm sàng .

Xét nghiệm định lượng HE4 huyết tương được chỉ định trong:

– Chẩn đoán sớm ung thư buồng trứng, đặc biệt là các trường hợp nghi ngờ ung thư buồng trứng thể nội mạc, thể thanh dịch và thể tế bào sáng. – Theo dõi diễn biến của bệnh và hiệu quả điều trị ung thư buồng trứng. – Phát hiện ung thư buồng trứng tái phát sau điều trị phẫu thuật. – Xét nghiệm HE4 có thể được chỉ định một mình hoặc kết hợp với CA 125. Việc kết hợp xét nghiệm HE4 và CA 125, cùng với thuật toán đánh giá nguy cơ ung thư buồng trứng (Risk of Ovarian Malignancy Algorithm: ROMA) làm tăng độ nhạy của chẩn đoán ung thư buồng trứng.

– Việc chỉ định thêm một số dấu ấn ung thư khác như CA 72-4 và CEA hầu như không làm tăng độ nhạy của chẩn đoán ung thư buồng trứng.

Một điều cần chú ý là, trong quá trình theo dõi ung thư buồng trứng thể tế bào mầm hoặc thể niêm dịch, không nên chỉ định HE4 vì nồng độ của nó trong huyết tương không thay đổi ở các thể ung thư này.

Giá trị bình thường của nồng độ HE4 huyết tương ở phụ nữ khỏe mạnh là ≤ 70 pmol/L, có thể tăng theo tuổi, giá trị cắt (cut-off) hay được sử dụng là ≤ 150 pmol/L.

Gene HE4 (tổng hợp protein HE4) thường thể hiện quá mức ở 99% trường hợp ung thư buồng trứng thể nội mạc, 90% ung thư buồng trứng thể thanh dịch (serous) và 50% ung thư thể tế bào sáng (clear-cell). Tuy nhiên, gene HE4 không thể hiện nhiều ở các ung thư buồng trứng thể tế bào mầm (germ-cell) và thể niêm dịch (mucinous).

Khi sử dụng đơn lẻ, HE4 có độ nhạy cao nhất đối với việc phát hiện ung thư buồng trứng, đặc biệt trong giai đoạn I, là giai đoạn sớm còn chưa có triệu chứng. Hơn nữa, HE4 cũng có độ nhạy cao hơn CA 125 trong giai đoạn sớm của ung thư màng trong tử cung (endometrial cancer). Sự tăng HE4 cùng với sự bình thường của CA 125 gợi ý rằng có thể có ung thư buồng trứng hoặc ung thư khác, chẳng hạn như ung thư màng trong tử cung.

Sự kết hợp xét nghiệm HE4 và CA 125 cho phép chẩn đoán ung thư buồng trứng với độ nhạy cao nhất là 76,4% và độ đặc hiệu là 95%.

Sự kết hợp xét nghiệm HE4 và CA 125 có thể giúp chẩn đoán phân biệt giữa khối u lành tính hoặc ác tính ở vùng chậu hông ở những phụ ở tuổi trước và sau mãn kinh chính xác hơn. Việc sử dụng mỗi xét nghiệm đơn lẻ với độ nhạy 78,6% và độ đặc hiệu 95%.

Sự kết hợp xét nghiệm HE4 và CA 125, cùng với thuật toán đánh giá nguy cơ ung thư buồng trứng (ROMA) làm tăng độ nhạy của chẩn đoán ung thư buồng trứng ở phụ nữ có khối u vùng chậu hông.

Điều cần chú ý là, nồng độ HE4 huyết tương cũng có thể tăng ở những mức độ nhất định trong một ung thư khác như ung thư phổi, dạ dày, vú và một số bệnh lành tính khác.

1. Khi sử dụng đơn lẻ, HE4 có độ nhạy cao đối với việc phát hiện ung thư buồng trứng, đặc biệt trong giai đoạn I, là giai đoạn sớm còn chưa xuất hiện triệu chứng.

2. HE4 còn được sử dụng để theo dõi diễn biến của bệnh, hiệu quả điều trị và phát hiện tái phát sau phẫu thuật của ung thư buồng trứng.

3. Sự kết hợp xét nghiệm HE4 và CA 125 cho phép chẩn đoán ung thư buồng trứng với độ nhạy và độ đặc hiệu cao hơn.

4. Sự kết hợp xét nghiệm HE4 và CA 125 có thể giúp chẩn đoán phân biệt giữa khối u lành tính hoặc ác tính vùng chậu hông chính xác hơn việc sử dụng mỗi xét nghiệm đơn lẻ.

Medlatec : Gói Xét Nghiệm Marker Ung Thư Tử Cung

Ngày nay, bệnh ung thư buồng trứng là căn bệnh ung thư gây tử vong cao hàng đầu ở phụ nữ. Bởi vậy việc thăm khám định kỳ để sàng lọc, tầm soát ung thư buồng trứng là điều mà rất nhiều chị em phụ nữ quan tâm. Vậy xét nghiệm CA 125 có phát hiện ra ung thư buồng trứng được không? Tìm hiểu về xét nghiệm Marker ung thư tử cung – buồng trứng (CA 12-5)

1. Xét nghiệm CA 125 là gì?

Xét nghiệm CA 125 (carcinama antigen) có cấu trúc là một glycoprotein, thường hiện diện trong máu với nồng độ cao khi xuất hiện các tế bào u, cụ thể là ung thư buồng trứng.

Có tới 50 – 70% bệnh nhân ung thư buồng trứng có nồng độ 125 trong máu tăng cao.

Tuy nhiên chỉ số CA 125 tăng không đồng nghĩa là bệnh nhân bị ung thư buồng trứng và ngược lại CA 125 bình thường cũng không loại trừ khả năng bị ung thư vì có tới 30-50% các bệnh nhân ung thư buồng trứng nhưng nồng độ CA 125 vẫn không cao. Trong trường hợp bệnh nhân bị ung thư buồng trứng nhưng CA125 vẫn bình thường có thể làm them các xét nghiệm HE4, CEA, CA19-9.

Xét nghiệm CA 125 có giá trị để theo dõi điều trị, đặc biệt với các bệnh nhân ung thư buồng trứng trước khi điều trị có nồng độ CA 125 cao.

2. Chỉ số xét nghiệm CA 125 bình thường là bao nhiêu?

Người bình thường có chỉ số CA 125 duy trì ở mức nhỏ hơn 35 UI/ml.

Tuy nhiên, một số trường hợp cá biệt cũng khiến cho nồng độ CA 125 trong cơ thể người phụ nữ tăng cao như:

Phụ nữ đang trong những ngày có kinh nguyệt hoặc bị mắc bệnh phụ khoa như u nang buồng trứng, lạc nội mạc tử cung, viêm nhiễm âm đạo hoặc mắc một số các bệnh lành tính như viêm phần phụ, viêm gan, viêm tụy, … cũng khiến cho chỉ số CA 125 cao hơn bình thường.

Phụ nữ đang có thai có chỉ số CA 125 cao nhất vào tam cá nguyệt đầu tiên ( (16-268 U/mL), tam cá nguyệt thứ 2(12-25 U/mL) và tam cá nguyệt thứ 3(17-44 U/mL).

Do vậy, để phân biệt được các trường hợp ung thư hay không do ung thư, bệnh nhân cần theo dõi sự biến đổi của nồng độ CA 125 huyết tương trong khoảng thời gian tối thiểu là 2 tuần cho đến 1 tháng.

3. Trường hợp nào cần làm xét nghiệm CA 125?

Xét nghiệm CA 125 được sử dụng để sàng lọc nhằm phát hiện sớm ung thư buồng trứng ở những phụ nữ có nguy cơ cao do có tiền sử gia đình

Ca 125 được chỉ định khi 1 phụ nữ bị nghi ngờ bị ung thư buồng trứng.

Một phụ nữ đã được chẩn đoán ung thư buồng trứng ( CA 125 tăng cao) sẽ được chỉ định làm xét nghiệm CA 125 sau khi phẫu thuật cắt bỏ buồng trứng hoặc điều trị tia xạ, hoá chất,… và theo dõi liên tiếp sau 1 tháng, 3 tháng hoặc 6 tháng.

Xét nghiệm CA 125 cũng được dùng để chẩn đoán ung thư buồng trứng cùng với một số dấu ấn ung thư khác như: AFP, β-hCG, CEA, CA19-9, HE4.

Bệnh nhân Nghi ngờ ung thư phổi: CA125 cũng được xem như dấu ấn ung thư loại 2, sau các dấu ấn ung thư ProGRP, NSE, CYFRA 21-1, CEA và SCC.

Ngoài ra, CA 125 cũng tăng trong một số các ung thư (bệnh ác tính) khác như lạc nội mạc tử cung, ung thư phổi, đại trực tràng.

4. Làm xét nghiệm CA 125 ở đâu nhanh và chính xác nhất?

Để có kết quả xét nghiệm CA 125 nhanh và chính xác nhất, bạn nên đến thăm khám tại những cơ sở y tế chuyên khoa uy tín và chuyên nghiệp.

Với hơn 23 năm kinh nghiệm, là đơn vị đứng đầu trong lĩnh vực đa khoa nói chung và xét nghiệm nói riêng, Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC hiện là sự lựa chọn hàng đầu của mọi công dân Thủ đô và công dân trên cả nước đến thăm khám.

Bệnh viện Đa khoa MEDLATEC được đầu tư kỹ lưỡng về trang thiết bị, máy móc xét nghiệm. Hơn nữa, chuyên khoa xét nghiệm của MEDLATEC đạt tiêu chuẩn quốc tế ISO 15189:2012 cùng với sự quy tụ của các đội ngũ chuyên gia, y bác sĩ hàng đầu về huyết học cam kết luôn bảo đảm chất lượng xét nghiệm chính xác và thời gian trả kết quả nhanh nhất. Thông thường đối với xét nghiệm máu, kết quả được trả sau 1h30′ tiếng kể từ khi nhận mẫu.

Địa điểm áp dụng:

1. Số 42 – 44 Nghĩa Dũng, Phúc Xá, Ba Đình, Hà Nội, Việt Nam

2. Số 99 Trích Sài, Tây Hồ, Hà Nội

3. Số 03 Khuất Duy Tiến, Thanh Xuân, Hà Nội.