Top 4 # Xem Nhiều Nhất Ung Thư Vú Xạ Trị Mới Nhất 3/2023 # Top Like | Growcaohonthongminhhon.com

Xạ Trị Ung Thư Vú

Xạ trị là một trong những biện pháp quan trọng trong điều trị ung thư vú. Cùng tìm hiểu về phương pháp này trong bài viết cũng như biết cách chuẩn bị kỹ càng về tâm lý, tài chính cũng như các biện pháp giảm tác dụng phụ, nâng cao sức đề kháng giúp cơ thể nhanh chóng thích nghi phương pháp điều trị:

1. Xạ trị ung thư vú là gì?

Điều trị ung thư bằng xạ trị sử dụng tia X-quang mạnh để tiêu diệt tế bào ung thư. Điều trị xạ trị là liệu pháp điều trị phổ biến được sử dụng trong điều trị ung thư vú. Sử dụng các bức xạ chiếu đúng vị trí của khối u, các hạch bạch huyết hoặc thành ngực để ngăn chặn ung thư lan rộng, hoặc giảm nguy cơ tái phát.

Bác sĩ có thể khuyên người bệnh ung thư vú nên thực hiện xạ trị bên trong cơ thể (brachytherapy). Đây là phương pháp điều trị trong đó các mảnh nhỏ chất phóng xạ đặt xung quanh khối u. Tổng thời gian điều trị dao động chỉ từ vài giờ đến khoảng một tuần. Tác dụng phụ của phương pháp điều trị này ít hơn phương pháp xạ trị bên ngoài, và có thể giữ được nhiều mô khỏe mạnh tránh khỏi bị tác động xấu của tia xạ.

2. Tác dụng phụ xạ trị ung thư vú

Người bệnh thực hiện xạ trị ung thư vú có thể phải đối mặt với các tác dụng phụ của xạ trị ung thư sau:

Tác dụng phụ ngắn hạn của xạ trị ung thư vú

Các tác dụng phụ này thường chỉ là tạm thời, và thường mất đi trong vài tuần điều trị cuối cùng bao gồm:

Kích ứng da ở vùng sau điều trị. Sau vài lần điều trị đầu tiên, da sẽ cảm thấy nhạy cảm và bắt đầu chuyển sang màu hồng; cuối cùng có thể bị như cháy nắng, ngứa, bong tróc hoặc bị phồng rộp, thường gây đau nhức. Kích thích có thể tồi tệ hơn khi tiếp tục điều trị.

Rụng lông dưới cánh nếu bức xạ mục tiêu tới khu vực dưới cánh tay của bạn.

Cảm thấy rất mệt mỏi sau những tuần điều trị.

Tác dụng phụ dài hạn

Do bức xạ chỉ hướng đến một khu vực xác định trên cơ thể, nên các bác sĩ sẽ dành nhiều thời gian để “đánh dấu” trước khi thực hiện lần điều trị đầu tiên. Nghĩa là bác sĩ sẽ đo đạc cẩn thận để xem và kiểm tra bức xạ có nhắm trúng vào khu vực ung thư cần điều trị chưa và có ảnh hưởng đến các mô khác xung quanh không. Sau đó, họ sẽ đánh một dấu mực nhỏ trên da để hướng dẫn cho các đợt điều trị sau này. Vết đánh dấu thường được xăm lên da của bạn vĩnh viễn.

Có thể mất nhiều tháng hoặc nhiều năm để làn da trở lại màu sắc bình thường nếu vị trí bức xạ xạm hơn nhiều những vùng khác. Trong một số trường hợp, sự thay đổi màu sắc có thể sẽ là vĩnh viễn, hoặc đôi khi da sẽ săn chắc hơn hoặc dày hơn. Da nhạy cảm hoặc đau đôi khi có thể kéo dài nhiều tháng.

Bên cạnh đó, một số phụ nữ có thể thấy rằng sau xạ trị ung thư vú, vú trở nên nhỏ hơn và săn chắc hơn. Những phụ nữ đã điều trị xạ trị ung thư vú có thể gặp nhiều vấn đề cho con bú sau này.

Tác dụng phụ hiếm gặp

Trong trường hợp người bệnh phải loại bỏ hạch bạch huyết trước khi bức xạ, người bệnh có nguy cơ tắc nghẽn hạch bạch huyết cao (phù do mạch bạch huyết), gây ra sưng cánh tay nơi các hạch bị loại bỏ.

Bên cạnh đó, một số biến chứng hiếm gặp khác người bệnh có thể phải đối mặt bao gồm:

Xương sườn bị gãy do bị suy yếu trong quá trình xạ trị

Mô phổi bị viêm

Bị tổn thương tim khi bức xạ bên trái ngực

Ung thư thứ phát bởi bức xạ

Biện pháp đối phó với tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú

Khi thực hiện điều trị xạ trị ung thư vú, người bệnh không thể tránh hoàn toàn tác dụng phụ của xạ trị, tuy nhiên vẫn có thể giảm thiểu các tác dụng phụ, bằng cách:

Mặc quần áo rộng rãi nếu bạn đang kích ứng da. Hãy lựa chọn loại áo ngực không có gọng.

Hãy hỏi bác sĩ các loại mỹ phẩm bạn nên sử dụng trên da khi tắm. Hãy hỏi bác sĩ trước những thứ kem hay thuốc mỡ bạn bôi lên da có ảnh hưởng gì đến quá trình điều trị hay không. Cố gắng không chà xát, gãi và chườm nước đá hay miếng đắp nóng lên vùng điều trị.

Chống mệt mỏi bằng cách nghỉ ngơi nhiều. Cung cấp cho cơ thể bạn các chất dinh dưỡng cần thiết để tự phục hồi. Báo lại với bác sĩ bất kỳ tác dụng phụ nào đang xảy ra.

Tăng cường sức đề kháng, hễ miễn dịch bằng chế độ dinh dưỡng, tâm lý tích cực, tập luyện các bài tập theo chỉ định và sử dụng thực phẩm bảo vệ sức khỏe Fucoidan

King Fucoidan & Agaricus là sự kết hợp tuyệt vời của Fucoidan Nhật Bản từ tảo Mozuku và nắm Agaricus là một sản phẩm cho tác dụng như vậy. Hai thành phần này kết hợp tạo nên tác dụng hiệp đồng giúp tăng khả năng tiêu diệt tế bào ung thư lên một cách đáng kể.

Viện Nghiên cứu Fucoidan Nhật Bản (NPO) đã khẳng định sự phối hợp giữa Fucoidan và Betaglucan trong nấm Agaricus kết hợp cùng các biện pháp điều trị ung thư hiện đại sẽ cho hiệu quả mạnh mẽ nhất, hạn chế các tác dụng không mong muốn trong quá trình hóa, xạ trị, hạn chế di căn và nâng cao chất lượng cuộc sống trong thời gian người bệnh chiến đấu với ung thư

King Fucoidan & Agaricus là sản phẩm Fucoidan Nhật Bản đầu tiên được Bộ Y tế cấp phép lưu hành, là sản được các bác sĩ bệnh viện Ung Bướu hàng đầu Việt Nam khuyên bệnh nhân ung thư nên sử dụng trước, trong và sau quá trình điều trị, giúp hỗ trợ điều trị ung thư, nâng cao sức đề kháng, giảm tác dụng phụ của hóa trị – xạ trị, giúp người bệnh ăn ngon hơn, ngủ ngon hơn, kiểm soát và kéo dài thời gian sống.

King Fucoidan giúp người bệnh giảm được những triệu chứng khó chịu khi điều trị bằng xạ trị

HOTLINE MIỄN CƯỚC 24/7 18000069 (miễn cước), để được tư vấn và mua hàng trực tiếp từ nhà nhập khẩu chính thức sản phẩm.

Dược sĩ: Nguyễn Thị Lan Anh

Lưu ý sản phẩm này không phải là thuốc và không có tác dụng chữa bệnh. Đây là sản phẩm được khuyên dùng trong xạ trị bởi các bác sĩ điều trị ung thư các bệnh viện chuyên khoa lớn tại Việt Nam

Xạ Trị Ung Thư Vú – Tác Dụng Phụ Thường Gặp

Ung thư vú là bệnh ung thư phổ biến nhất ở nữ giới cùng với ung thư tử cung và ung thư tuyến giáp. Một trong những phương pháp điều trị ung thư vú được lựa chọn hàng đầu là xạ trị với hiệu quả tiêu diệt khối u ác tính nhanh và mạnh. Tuy nhiên, bệnh nhân vẫn không thể tránh khỏi tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú.

Phụ nữ là đại diện cho phái đẹp. Trong đó, bầu ngực (vú) là 1 trong 2 điểm khác biệt rõ ràng nhất giữa phái đẹp với nam giới về mặt thẩm mỹ.

Về mặt sinh học, vú làm nhiệm vụ tạo sữa mẹ, cung cấp nguồn dinh dưỡng cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ khi mẹ sinh em bé.

Khi các bộ phận nằm trong bầu vú tăng sinh bất thường quá giới hạn sẽ gây ra bệnh ung thư vú.

 Nhóm phụ nữ có nguy cơ bị ung thư vú cao

Theo nghiên cứu, những phụ nữ thuộc nhóm sau khả năng bị ung thư vú cao hơn nhóm con lại:

– Tuổi cao (trên 50 tuổi).

– Tiểu sử gia đình có người bị ung thư vú, buồng trứng.

– Người có kinh nguyệt sớm (trước 12 tuổi), mãn kinh muộn (sau 55 tuổi), rong kinh, kinh nguyệt không đều, u nang – u xơ tuyến vú.

– Người có con muộn (sau 35 tuổi), không sinh con, vô sinh, hiếm muộn.

– Người sử dụng chất kích thích: thuốc lá, rượu, bia, các chất gây nghiện.

– Mang gen đột biến BRCA1, BRAC2 dễ ung thư vú. Trên thế giới có siêu sao minh tinh màn bạc Angelina Jolie mang gen này. Cô đã cắt tuyến vú để phòng ngừa ung thư.

– Do môi trường sống bị ô nhiễm nặng: nhiều chất độc hại, khí thải nhà máy, có tia phóng xạ, nhiễm độc thủy ngân, khói do đốt rơm rạ, cháy rừng…

Các dấu hiệu và cách phát hiện bệnh bệnh ung thư vú

Khi bạn phát hiện những dấu hiệu bất thường sau, hãy tới gặp bác sĩ để kiểm tra ngay:

– Sờ thấy các cục u quanh vú: thường xuyên sờ nắn núm vú, bầu vú, nếu thấy các cục u tròn, cứng thì phải đi kiểm tra ngay, đừng để tới khi khối u nhìn thấy bằng mắt mới phát hiện bệnh.

– Đau vú.

– Dịch tiết ra ở núm vú.

– Núm vú bị tụt sâu vào trong.

– Da quanh vú thay đổi màu sắc, trở nên nhăn nhúm, có nếp gấp như da người già. Đôi khi quanh vú mọc mụn nước lốm đốm.

– Nổi cục ở nách: đây là thời điểm khối u ở vú bắt đầu di căn sang vùng xung quanh, gần nhất là vùng nách. Khi đó các hạch ở nách sưng to, có thể sờ thấy được.

Nhận thấy các dấu hiệu trên, bạn nên gặp bác sĩ để thăm khám bệnh bằng cách: chụp Xquang, Siêu âm vú, chụp MRI, xét nghiệm mẫu tế bào hay mô ở vú.

Hiện nay có rất nhiều phương pháp điều trị ung thư, một biện pháp rất phổ biến trong chữa trị ung thư vú là xạ trị.

Xạ trị ung thư vú là gì?

Xạ trị hay còn gọi là Liệu pháp xạ (Brachytherapy): sử dụng các chùm năng lượng cao hoặc sóng điện tử tần suất cao như tia X – quang, tia Gamma, tia proton… phá hỏng cấu trúc các khối u, tiêu diệt tế bào ác tính, ngăn chặn sự hình thành mới các khối u.

Xạ trị có thể sử dụng đơn lẻ hoặc kết hợp với phương pháp phẫu thuật hoặc hóa trị trong phác đồ điều trị ung thư tùy theo loại bệnh ung thư và tình hình bệnh cũng như thể trạng của ng­ười bệnh.

Công dụng của xạ trị rất cao, làm giảm nguy cơ tái phát ung thư vú từ 35% còn 5 – 10%.

Thời gian xạ trị:

– Xạ trị bên ngoài: từ 5 – 7 tuần và 5 ngày/ tuần. Xạ trị vú tăng tốc thì 3 tuần.

– Xạ trị bên trong: từ vài giờ tới 7 ngày, có thể tiêu diệt hết các khối u mà không hầu như không có tác dụng phụ như xạ trị bên ngoài.

Các biện pháp xạ trị ung thư vú đều có tác dụng phụ không mong muốn với bệnh nhân trong và sau quá trình điều trị u vú.

Khi nào xạ trị ung thư vú

Tùy thuộc vào thể trạng bệnh nhân và giai đoạn ung thư, bác sĩ sẽ chỉ định xạ trị mỗi bệnh nhân với phác đồ điều trị khác nhau.

Xạ trị sau phẫu thuật

– Giảm nguy cơ ung thư tái phát: loại bỏ các tế bào ác tính còn sót lại ở vú. Nếu bệnh nhân đã cắt bỏ một phần vú, bác sĩ sẽ chỉ định xạ trị đối với các mô vú còn lại.

– Nếu người bệnh cắt bỏ toàn bộ vú mà ung thư đã di căn đến các hạch bạch huyết dưới cánh tay thì sẽ được xạ trị vùng thành ngực.

    Xạ trị kết hợp hóa trị

    Bác sĩ chọn xạ trước, hóa sau; hóa trước, xạ sau; cùng song hành hóa – xạ theo phác đồ phù hợp nhất với tình trạng người bệnh.

      Ung thư tiến triển

      Xạ trị khi ung thư vú tiến triển nặng hơn gọi là điều trị giảm nhẹ, kiểm soát bệnh chưa được điều trị ở vú trước đó, giúp giảm các triệu chứng ung thư (như đau, chèn ép tủy sống hoặc các khối u do ung thư xâm lấn – ung thư vú thứ phát) và chỉ trong khoảng thời gian ngắn.

      Tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú

      Bệnh nhân K vú thường chịu tác động từ tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú với 2 loại cấp tính và mãn tính.

      – Tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú cấp tính (tác dụng sớm): xuất hiện ở da, niêm mạc, tủy xương… trên tế bào tăng trưởng nhanh trong và sau khi xạ trị với mức độ tăng dần; cao nhất là từ tuần 5 – tuần 7.

      – Tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú mãn tính (tác dụng muộn): tế bào chết đi (teo mô, tạng, xơ hóa) diễn tiến chậm trong vài tháng tới vài năm, không phục hồi và làm ảnh hưởng, mất chức năng hoạt động của tạng.

      Tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú cấp tính:

      – Thời gian đầu sau vài lần điều trị: da trên vú bắt đầu chuyển sang màu hồng. Sau đó sạm da (giống khi bị cháy nóng), da ngứa, bong tróc, bỏng rát, phồng rộp. Da bắt đầu có cảm giác đau đớn, nhức. Tới những tuần ở đợt điều trị cuối thì các triệu chứng đau rát, bỏng da này sẽ hết dần.

      – Sau 4 – 5 tuần: Nếu bạn xạ dưới cánh tay sẽ bị rụng lông dưới cánh tay, ít ra mồ hôi đi, khô da, bong tróc vảy.

      – Phổ biến nhất là cảm giác mệt mỏi, chán ăn, đau đầu, viêm dạ dày, viêm ruột, thực quản, tiêu chảy…. kéo dài tới tuần cuối xạ trị.

      Lời khuyên: Bệnh nhân nên đến trước buổi xạ trị 30 phút để đảm bảo thời gian xạ trị đã xếp lịch với bác sĩ đạt hiệu quả cao nhất. 

        Tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú mãn tính:

        – Tăng hay giảm sắc tố vùng da xạm mất nhiều thời gian để khỏi. Da có thể dày hơn, sần sùi hơn.

        – Giãn mao mạch, rụng tóc vĩnh viễn.

        – Viêm loét vùng da trên ngực lâu dài, khó khỏi.

        – Teo vùng da xạ, xơ hóa vú, phù khu trú.

        – Mất nhiều thời gian đánh dấu khu xạ trị trong buổi xạ trị đầu tiên, có thể bạn sẽ bị xăm vùng da xạ trị vĩnh viễn.

        – Tổn thương dây thần kinh, tê, đau nhức, ảnh hưởng lâu dài tới việc phục hồi thương tổn, khả năng cho con bú.

          Tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú hiếm gặp:

          Nếu bạn loại bỏ hạch bạch huyết trước khi bức xạ, bạn có nguy cơ tắc nghẽn hạch bạch huyết cao (phù do mạch bạch huyết), gây ra sưng cánh tay nơi có các hạch bị loại bỏ dẫn tới biến chứng hiếm gặp như:

          – Xương sườn bị gãy.

          – Viêm Mô phổi.

          – Tổn thương tim khi bức xạ bên trái ngực.

          – Ung thư thứ phát do bức xạ.

          Hãy gặp bác sĩ ngay nếu bạn gặp các tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú này.

          Cách khắc phục tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú

          Mách bạn một số cách làm giảm bớt các tác dụng phụ này rất hiệu quả:

          – Mặc quần áo rộng, áo lót rộng, không gọng, vải mềm, không gây kích ứng da.

          – Dùng dầu tắm nguồn gốc thảo dược, không kì cọ, chà xát mạnh, không gãi da, không chườm đá, đắp cao nóng lên vú.

          – Hỏi ý kiến bác sĩ sử dụng kem/ gel bôi trị rát, bỏng da xạ trị phù hợp, tốt nhất là có nguồn gốc thiên nhiên.

          – Nghỉ ngơi, thư giãn nhiều, vận động nhẹ nhàng.

          – Ăn uống đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể.

          Ung thư vú là hoàn toàn có thể chữa được nếu phát hiện sớm và điều trị sớm bằng phương pháp xạ trị theo phác đồ của bác sĩ cũng như giảm thiểu tác dụng phụ của xạ trị ung thư vú. 

          Vietlife Antican giảm tác dụng phụ của xạ trị và tăng cường miễn dịch, tăng thể trạng cho người bệnh ung bướu

          Sản phẩm Vietlife Antican được chiết xuất từ Nghệ, gừng, nụ Hoa hòe bằng công nghệ Nano Solid – Lipid hiện đại, tương thích sinh học bậc nhất với màng tế bào giúp phát huy tối đa tác động kép của 3 thành phần trong việc hỗ trợ điều trị ung thư và phòng ngừa ung thư tái phát.

          Nano Curcumin NDN (từ Nghệ):

          – Curcumin trong củ nghệ được nano hoá có tác dụng chống viêm, chống oxy hoá, chống gốc tự do, ức chế hình thành mạch máu, hạn chế cung cấp máu tới các tế bào ung thư  và hạn chế di căn.

          – Nhờ tính kháng viêm mạnh, Nano Curcumin ức chế các yếu tố gây viêm, loét, cải thiện các triệu chứng sau hoá trị – xạ trị hiệu quả. 

          – Các vết loét hoặc tổn thương niêm mạc do tiếp xúc với hoá – xạ trị cũng nhanh chóng được hồi phục và tái tạo.

            Nano Ginger NDN (từ Gừng):

            – Hoạt chất 6 – shogaol, 6 – Gingerol trong Gừng ức chế sự phát triển khối u ở đại tràng.

            – Khả năng chống viêm, chống nhiễm trùng của gừng rất mạnh, đặc biệt khi chúng hiệp đồng tác dụng với Curcumin, hạn chế tối đa sự phát triển của tế bào ung thư.

              Nano Rutin NDN:

              Chiết xuất từ hoa hoè được nghiên cứu có tác dụng bảo vệ cơ thể khỏi bức xạ:

              – Giúp cơ thể tăng khả năng chịu bức xạ.

              – Tăng hoạt tính của enzym chống oxy hoá.

              – Tăng sức đề kháng cho người bệnh, nâng cao thể trạng để chống chọi với các tác dụng từ các phương pháp điều trị ung thư.

              Liên hệ – nhận tư vấn từ chuyên gia

              Công trình được nghiên cứu tại Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam do chúng tôi Đỗ Thị Thảo trực tiếp thử nghiệm hiệu quả giảm độc tính, chống gốc tự do, tăng cường miễn dịch và kháng u.

              1) Hoạt tính kháng U, ở liều cao có khả năng ức chế tới 50% khối U;

              2) Tăng cường hoạt tính của thuốc trong hóa trị khối U;

              3) Giảm độc tính hóa xạ trị, chống oxy hóa, chống gốc tự do.

Xạ Trị Ung Thư Vú Gây Độc Cho Tim Lâu Dài

Bouillon K, Haddy N, Delaloge S, et al. Tử vong tim mạch lâu dài sau xạ trị ung thư vú. J Am Coll Cardiol . 2011; 57: 445-452.

Phân tích hồi cứu một tổ chức (Institut Gustave Roussy).

Những người tham gia

Phát hiện chính

Trong thời gian theo dõi trung bình 28 năm, có 2.637 trường hợp tử vong. Trong số 421 ca tử vong do nguyên nhân tim mạch, có 236 ca do thiếu máu cơ tim, suy tim, rối loạn nhịp tim, rối loạn dẫn truyền; 185 người là do bệnh mạch máu. Những phụ nữ được xạ trị ở ngực trái có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn 1,77 lần (KTC 95%: 11,33-2,36) so với những người không xạ trị. So sánh những người được xạ trị bên phải và bên trái, những người được điều trị bên trái có nguy cơ mắc bệnh tim cao hơn 1,28 lần (KTC 95%: 0,92-1,78). Cuối cùng, chiếu xạ vào chuỗi tuyến vú bên trong làm tăng nguy cơ tử vong do nguyên nhân tim gấp 1,3 lần (KTC 95%: 1,33-2,36) so với những người được điều trị hạn chế ở thành ngực.

Thực hành hàm ý

Việc sử dụng xạ trị bổ trợ ở những phụ nữ đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ khối u vì ung thư vú đã trở thành thông lệ. Thiệt hại cho tim đã là một mối quan tâm, đặc biệt là đối với xạ trị bên trái, trong ít nhất 2 thập kỷ. Các phát hiện từ nghiên cứu hiện tại chứng minh cơ thể bằng chứng đã tích lũy được cho thấy rằng xạ trị có hậu quả lâu dài đối với cơ tim và hệ mạch.

Như nghiên cứu ở trên kết luận, những bệnh nhân đã xạ trị từ lâu có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn, và chúng ta phải ghi nhớ điều này khi giải quyết vấn đề sức khỏe tổng thể của họ.

Nghiên cứu này đã xem xét những hậu quả lâu dài đối với tim do bức xạ ion hóa nhận được từ năm 1954 đến năm 1984. Như nghiên cứu ở trên kết luận, những bệnh nhân đã xạ trị từ lâu có nguy cơ mắc bệnh tim mạch cao hơn, và chúng ta phải ghi nhớ điều này. khi giải quyết sức khỏe tổng thể của họ. Những tiến bộ trong lập kế hoạch bức xạ (đo liều lượng), đặc biệt là việc sử dụng lập kế hoạch do máy tính hướng dẫn, đã cải thiện đáng kể độ chính xác của các phương pháp điều trị. Tuy nhiên, chúng ta nên lo lắng cho những bệnh nhân đang xạ trị ung thư vú vì tim vẫn nhận được liều bức xạ ion hóa đáng kể, đặc biệt ở những phụ nữ bị ung thư vú trái. 1

Vì vậy, nguy cơ lớn đến tim như thế nào? Một phân tích tổng hợp năm 2000 của 40 nghiên cứu về ung thư vú giai đoạn đầu cho thấy bức xạ làm giảm đáng kể sự tái phát tại chỗ trong 10 năm sau điều trị (8,8% so với 27,2%). 2 Tuy nhiên, đáng ngạc nhiên là các tác giả cũng phát hiện ra rằng mặc dù tỷ lệ tử vong do ung thư vú giảm trong thời gian 20 năm, tỷ lệ tử vong do các nguyên nhân khác, đặc biệt là nguyên nhân tim mạch, lại tăng lên: “Tỷ lệ sống sót chung trong 20 năm là 37,1% khi xạ trị so với 35,9% (P = 0,06). ” Những tiến bộ trong xạ trị trong thập kỷ qua đang bắt đầu cho thấy lợi thế sống sót đối với những người được xạ trị, nhưng lượng bức xạ mà tim nhận được và có thể chịu đựng vẫn còn là một vấn đề tranh luận. 3

Xạ trị thường được thực hiện cho phụ nữ ở tư thế nằm ngửa, để các mô vú lan rộng và rơi xuống một bên của thành ngực. Điều này đặt các mô vú rất gần với thành ngực và tim, đặc biệt là ở những phụ nữ có bộ ngực lớn. Tôi không thể tìm được câu trả lời thỏa đáng tại sao tư thế nằm ngửa chiếm ưu thế trong xạ trị, ngoại trừ việc nói rằng nó đã trở thành quy ước, có thể là do kích thước và thiết kế của thiết bị xạ trị ban đầu.

Không có gì đáng ngạc nhiên khi nằm sấp làm giảm lượng bức xạ đến tim và phổi. 4 Vào năm 2008, một bài thuyết trình áp phích tại Hiệp hội Ung thư Lâm sàng Hoa Kỳ đã báo cáo rằng tư thế nằm sấp, trong đó vú nằm nghiêng nhiều hơn, giúp tránh được phần lớn thiệt hại cho tim và phổi của phụ nữ do phơi nhiễm bức xạ ion hóa. 5

Một áp phích năm 2011 do Tiến sĩ John Ng và các đồng nghiệp từ Đại học Columbia trình bày tại cuộc họp thường niên của Hiệp hội Ung thư Bức xạ Hoa Kỳ báo cáo rằng việc sử dụng tư thế nằm sấp làm giảm lượng bức xạ mà phổi tiếp xúc với 10% lượng bức xạ gây ra trong tư thế nằm ngửa. 6Đây là một mức giảm đáng kể, vì nguy cơ ung thư phổi ở phụ nữ có tiền sử bức xạ vú (ở tư thế nằm ngửa) là 4,86% so với nguy cơ nền là 1,5% ở những người không bị bức xạ. Nhóm của Ng cho biết việc sử dụng tư thế nằm sấp dự kiến sẽ dẫn đến nguy cơ ung thư phổi suốt đời là 1,99%, thậm chí còn ít hơn mức tăng 2,92% đối với những người đang xạ trị tại chỗ như liệu pháp căng bóng. Trong khi Ng và cộng sự không đánh giá lượng bức xạ đến tim, có thể an toàn khi cho rằng lượng bức xạ đến tim cũng được giảm bớt, vì nó gần với mô phổi hơn thành ngực.

Việc sử dụng định vị nằm sấp trong xạ trị ung thư vú là một lĩnh vực nghiên cứu hiện tại, với các nghiên cứu đang diễn ra làm rõ các lĩnh vực điều trị (tức là những nút nào có thể được điều trị) và loại xạ trị phù hợp nhất. 7-9 Đó là lý do mà một thay đổi hợp lý như vậy nên được thực hiện khi có nhiều dữ liệu hơn xác minh những gì dường như là một thiết kế công thái học hợp lý hơn nhiều để phân phối bức xạ. Một số trung tâm ung thư ở Hoa Kỳ hiện cung cấp liệu pháp xạ trị ở tư thế nằm sấp, nhưng việc sử dụng rộng rãi nó vẫn chưa được chấp nhận.

Hạn chế của nghiên cứu

Phân tích này sử dụng dữ liệu không thể ngoại suy trực tiếp do sự khác biệt về công nghệ và liều lượng xạ trị từ năm 1954-1984 và ngày nay. Tất cả dữ liệu được lấy từ một trung tâm ở Pháp, có thể có các chuẩn giao thức khác nhau so với các trung tâm khác và các quốc gia khác. Cũng có thể có sự sai lệch lựa chọn giữa các nhóm bức xạ và không bức xạ.

Phương Pháp Chữa Bệnh Ung Thư Vú Bằng Xạ Trị 3D

Trong phương pháp chữa bệnh ung thư vú này, bức xạ được cho với một máy đặc biệt do đó nó định hướng tốt hơn vào khu vực có khối u. Điều này làm cho vú khỏe mạnh không bị ảnh hưởng bởi bức xạ. Điều trị được cho 2 lần trong một ngày trong vòng 5 ngày. Bởi vì chỉ những phần nào của vú được điều trị, nên nó được coi như là một dạng tăng tốc chiếu xạ từng phần vú.

Những dạng khác của tăng tốc chiếu xạ từng phần vú sẽ được bàn bạc sau. Hy vọng rằng những tiếp cận này có thể chứng minh được tác dụng ít nhất là bằng với các phương pháp chữa bệnh ung thư vú chuẩn, nhưng vài nghiên cứu đã so sánh các phương pháp mới này với liệu pháp xah trị tiêu chuẩn. Người ta không biết nếu tất cả các phương pháp mới sẽ vẫn tiếp tục tốt như bức xạ chuẩn sau nhiều năm. Đây là lý do tại sao các bác sĩ vẫn coi chúng như thực nghiệm. Những phụ nữ thích thú với những tiếp cận này có thể muốn yêu cầu bác sĩ của họ về việc tham gia vào thử nghiệm lâm sàng của phương pháp chữa bệnh ung thư vú tăng tốc chiếu xạ vú ngay bây giờ.

Những tác dụng phụ của liệu pháp dùng tia xạ bên ngoài:

Những kiểm tra ngắn về tác dụng phụ của phương pháp chữa bệnh ung thư vú xạ trị dùng tia xạ bên ngoài là sưng và nặng ở vùng ngực, da đổi màu như bị cháy nắng ở khu vực chiếu xạ, và mệt mỏi. Nhóm chăm sóc sức khỏe của bạn có thể khuyên tránh phơi vùng da điều trị trực tiếp dưới ánh nắng mặt trời vì nó có thể làm da đổi màu tồi tệ hơn. Hầu hết các thay đổi da sẽ tốt hơn trong một vài tháng. Thay đổi mô vú thường biến mất trong 6 đến 12 tháng, nhưng cũng có thể đến 2 năm.

Ở vài phụ nữ, vú trở nên nhỏ hơn và cứng hơn sau phương pháp chữa bệnh ung thư vú bằng xạ trị. Xạ trị cũng có thể ảnh hưởng đến việc phẫu thuật tái tạo vú sau đó của một phụ nữ. Xạ trị cũng có thể làm tăng nguy cơ của các vấn đề nếu nó được cho sau khi tái tạo vú, đặc biệt là đối với quy trình tạo nắp mô vú. Những phụ nữ có xạ trị ung thư vú có thể gặp các vấn đề cho con bú sau đó. Xạ trị vú đôi khi có thể làm hư hại đến các dây thần kinh ở cánh tay. Đây được gọi là hội chứng rối loạn mạng lưới thần kinh cánh tay, có thể dẫn đến tê liệt, đau và làm yếu vai, cánh tay và bàn tay.

Trong vài trường hợp hiếm, phương pháp chữa bệnh ung thư vú bằng xạ trị có thể làm yếu xương sườn, có thể dẫn đến gãy xương. Trước đây, những phần của phổi và tim bị tiếp xúc với tia bức xạ, có thể dẫn đến phá hủy lâu dài các cơ quan này ở một số phụ nữ. Những công cụ của xạ trị hiện đại cho phép bác sĩ tập trung tốt hơn các tia xạ, do đó, các vấn đề ngày nay cũng hiếm gặp.